Đặc biệt đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta, đất đai còn là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế. Trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đất đai đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tạo sinh kế, nâng cao thu nhập, đời sống nông dân và người dân nông thôn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện, ổn định, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, bảo đảm an ninh lương thực. Giai đoạn 2008 - 2020, tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông, lâm, thủy sản đạt 3,01%/năm , quy mô GDP toàn ngành năm 2020 gấp 1,35 lần. Nông thôn đổi mới, đời sống nông dân cũng được cải thiện. Tuy nhiên, đất đai manh mún, phân tán vẫn là rào cản lớn trong phát triển kinh tế nông nghiệp; chính sách, pháp luật về đất đai cho phát triển nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, chưa được giải quyết kịp thời.
I. Chính sách, pháp luật đất đai được được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững
Ngay sau khi Nghị quyết số 19 ban hành, Luật Đất đai năm 2013 đã thể chế hóa đầy đủ quan điểm, định hướng đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, tiếp tục hoàn thiện các công cụ pháp luật về quy hoạch, kinh tế, hành chính và cơ chế theo dõi, giám sát đánh giá phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nguồn lực đất đai phát triển nông nghiệp, nông thôn, kinh tế - xã hội của đất nước.
Một là, khuyến khích tập trung và tích tụ đất nông nghiệp: Nâng thời hạn giao đất nông nghiệp trong hạn mức cho hộ gia đình, cá nhân từ 20 năm lên 50 năm thống nhất cho các loại đất nông nghiệp; cho phép hộ gia đình, cá nhân tích tụ đất đai với diện tích lớn hơn (không vượt quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp); khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai để thuận lợi cho ứng dụng khoa học và công nghệ, cơ giới hóa và phát triển sản xuất hàng hóa. Mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, bảo đảm phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp, giải phóng sức lao động, có chính sách bảo hộ, quy hoạch quỹ đất nông nghiệp ổn định, lâu dài giúp người nông dân yên tâm đầu tư vốn, khoa học - kỹ thuật trong quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp.
Hai là, xây dựng giá đất nông nghiệp: Giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp từng bước được xác định theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp đã góp phần bảo đảm cho thị trường phát triển đúng hướng, ngăn chặn đầu cơ, đồng thời tạo đà cho nông dân có nguồn vốn thực sự khi bị thu hồi đất nông nghiệp. Giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp góp phần tạo được lợi thế cho nông dân góp vốn hoặc mua cổ phần bằng đất vào các doanh nghiệp kinh doanh.
Các quan hệ đất đai trong nông nghiệp được vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ bao cấp trong quản lý, sử dụng đất đai, khắc phục tình trạng "xin - cho" trong sử dụng đất thông qua các quy định: thu hẹp các trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất và cơ bản chuyển sang thuê đất
Ba là, chính sách thu hồi đất và bồi thường đất nông nghiệp được bổ sung hoàn thiện ngày càng sát thực tiễn
Tiếp tục đổi mới công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư thông qua các quy định về giá đất bồi thường áp dụng giá đất cụ thể tại thời điểm quyết định thu hồi đất; quy định về điều kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, bồi thường tài sản gắn liền với đất. Quan tâm hơn đến đảm bảo sinh kế cho người có đất thu hồi thông qua quy định các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc làm; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Hạn chế thẩm quyền thu hồi đất, bảo vệ quỹ đất trồng lúa giữ vững an ninh lương thực quốc gia, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc đưa đất đã thu hồi vào sử dụng.
Bốn là, chính sách đất đai tạo tiền đề phát triển khu dân cư nông thôn: việc quy hoạch và thực hiện quy hoạch bảo đảm cho việc sử dụng đất đai và xây dựng hạ tầng khu dân cư nông thôn được văn minh, hiện đại nhưng vẫn mang đậm nét của văn hóa làng, xã của các địa phương. Quỹ đất quy hoạch cho phát triển khu dân cư nông thôn như hạ tầng văn hóa, thể thao, giáo dục… cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu theo quy hoạch nông thôn mới. Có nhiều biện pháp quản lý và đưa vào sử dụng hiệu quả đất ao, hồ, đất nông nghiệp xen kẹt trong khu dân cư nông thôn.
Năm là, góp phần xây dựng công trình thủy lợi, đất hành lang an toàn, thiết chế văn hóa ở nông thôn: phát triển hệ thống thủy lợi bảo đảm cung cấp đủ nước để khai thác tốt diện tích đất cây hàng năm (trong đó có đất lúa), bước đầu hoàn thiện hệ thống đê biển, đê sông nhằm chủ động ứng phó với tác động do biến đổi khí hậu và nước biển dâng; chú trọng đến việc bố trí đất cho hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa ở nông thôn; quan tâm đến việc bố trí đất cho các cơ sở y tế, cơ sở giáo dục - đào tạo, cơ sở thể dục - thể thao, cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở dịch vụ về xã hội…
II. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa trên quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ, lẻ, manh mún là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc phát triển nền nông nghiệp hiện đại và bền vững. Bình quân 1 hộ sản xuất nông nghiệp có 2,5 thửa ruộng; diện tích bình quân 1 thửa 1.843,1 m2 (Tổng cục Thống kê, 2016); mỗi hộ sử dụng diện tích đất là 0,45 ha/hộ (thấp nhất so với các nước trong khu vực và trên thế giới). Tổng số hộ có diện tích đất nông nghiệp dưới 0,5 ha chiếm tới 63% số hộ sử dụng đất nông nghiệp. Chính sách pháp luật về đất đai hiện hành vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nói riêng.
1. Về quyền tiếp cận đất đai của tổ chức, cá nhân
Pháp luật đất đai, pháp luật đầu tư, pháp luật đấu thầu và một số pháp luật khác có liên quan vẫn chưa quy định thống nhất và đồng bộ về việc người dân, doanh nghiệp được quyền tiếp cận các thông tin về đất đai, gây khó khăn cho các cơ quan, địa phương quyết định áp dụng hình thức đấu giá, đấu thầu hay quyết định chủ trương đầu tư dự án có sử dụng đất.
Cơ hội tiếp cận đất đai giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài khi thực hiện dự án được Nhà nước quy định chưa hoàn toàn bình đẳng; điều này dẫn đến tình trạng một số dự án đầu tư thuộc diện thu hồi đất phải chờ Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để bàn giao, cho thuê đất; trong khi nhà đầu tư nước ngoài có đủ điều kiện về mặt kinh tế thì lại không có cơ sở pháp lý để thực hiện…
2. Về cơ chế, chính sách tích tụ, tập trung đất đai
Trong thời gian vừa qua mặc dù đã được Đảng, Chính phủ được quan tâm chỉ đạo, nhưng quá trình tích tụ, tập trung đất đai ở các địa phương diễn ra còn chậm, việc thực hiện còn chưa thực sự gắn với tính công bằng, bền vững, hiệu quả và còn nhiều khó khăn, vướng mắc nhất định. Mặc dù đã xây dựng được nhiều cánh đồng mẫu lớn, nhưng cơ chế khuyến khích xây dựng cánh đồng lớn chưa phù hợp nên việc xây dựng cánh đồng lớn, mô hình tích tụ ruộng đất theo hướng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp,... còn thiếu các quy định thiết thực, phù hợp và đồng bộ.
Tại Khoản 3, Điều 191 Luật Đất đai 2013 quy định “Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa”; Khoản 30, Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp là hộ gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp; nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên đất đó”.
Theo quy định trên hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa; người cùng xã mới được chuyển nhượng quyền sử dụng đất lúa. Quy định này làm hạn chế các quyền cơ bản của hộ gia đình, cá nhân trong giao dịch dân sự, dẫn đến việc tổ chức thi hành các văn bản pháp luật khác có liên quan đạt hiệu quả chưa cao (ví dụ: Xử lý tài sản là quyền sử dụng đất trồng lúa để thực hiện nghĩa vụ dân sự theo bản án, Quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…); cản trở tổ chức, cá nhân đầu tư quy mô lớn vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
3. Về điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Theo Khoản 2, Điều 46, Luật Đất đai 2013 thì điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất chỉ được thực hiện trong 02 trường hợp (có sự điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất và có sự thay đổi về khả năng thực hiện kế hoạch sử dụng đất). Nhưng Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành luật chưa quy định rõ khái niệm thế nào là thay đổi khả năng thực hiện kế hoạch sử dụng đất.
Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất phải căn cứ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện được cấp thẩm quyền phê duyệt (Điều 52, Luật Đất đai). Do đó, những công trình, dự án không nằm trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm thì không đủ điều kiện để thực hiện.
Mặt khác, kế hoạch sử dụng đất phải thông qua HĐND tỉnh, HĐND tỉnh thường kỳ mỗi năm họp 02 lần (tháng 6 và tháng 12). Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm mới được HĐND tỉnh thông qua tháng 12 và phải yêu cầu những danh mục công trình đã được bố trí vốn là không khả thi vì không phải dự án nào tại thời điểm này phải trình HĐND cũng đã được bố trí vốn đầu tư. Mặt khác điều kiện này chỉ phù hợp với vốn đầu tư nhà nước (ngân sách), còn vốn của tư nhân là một vấn đề khác (đầu tư theo nhu cầu thị trường). Ngoài ra khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì chỉ xác định mục đích sử dụng đất của khu vực quy hoạch, chưa xác định được ai là chủ đầu tư. Như vậy, những công trình dự án muốn đầu tư ngay nhưng không có trong kế hoạch bắt buộc phải chờ đến tháng 6 hàng năm để báo cáo HĐND tỉnh.
4. Về quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
Tại điểm c Điều 56 Luật Đất đai 2013 quy định trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp thuộc trường hợp Nhà nước cho thuê đất. Do đó khi hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp thì phải chuyển sang thuê đất, quy định này hiện nay không được người dân đồng tình do đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình, cá nhân nay tại sao phải chuyển sang thuê chính đất thuộc quyền của họ.
Tại Điều 57 Luật Đất đai 2013 và Điều 11 Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT, ngày 27/01/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ chưa quy định trường hợp chuyển mục đích đất trồng cây lâu năm sang đất nuôi trồng thủy sản, đất nông nghiệp khác, do đó gây khó khăn trong công tác chuyển mục đích sử dụng đất khi tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu.
Công tác quản lý đất đai ở một số nơi còn chưa chặt chẽ, còn xảy ra tình trạng lấn chiếm đất đai, tranh chấp đất đai, đất để hoang hoá hoặc sử dụng không hiệu quả; quy hoạch sử dụng đất còn có một số nội dung chưa đồng bộ gắn kết với quy hoạch xây dựng, quy hoạch các ngành liên quan; chưa dự báo tốt nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích, dẫn đến phải điều chỉnh. Ruộng đất vẫn còn manh mún, quá trình tích tụ ruộng đất diễn ra chậm, hiệu quả sử dụng đất chưa cao. Cơ chế quản lý tài chính về đất đai chưa thực sự có hiệu quả, nguồn thu ngân sách từ đất đai chưa tương xứng với tiềm năng đất đai của tỉnh. Việc đầu tư kinh phí cho công tác quản lý đất đai còn hạn chế; việc quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Luật Đất đai và các nghị định thi hành Luật Đất đai chưa đáp ứng được tình hình thực tế về quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương, cụ thể như: chưa quy định hạn mức tách thửa đất nông nghiệp, chưa quy định cụ thể về trách nhiệm, thời gian xử lý tài sản khi thực hiện cưỡng chế thu hồi đất, sau khi thống kê, lập biên bản giao cho UBND cấp xã quản lý, không quy định trình tự, thủ tục thu hồi đất do vi phạm pháp luật tại điểm a, b khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai…
Điều kiện giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư quy định tại khoản 1, Điều 58 Luật Đất đai là chưa phù hợp, gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, thời gian kéo dài mất cơ hội thu hút đầu tư. Cụ thể, như: việc thu hồi chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng đặc dụng rừng phòng hộ đã có trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh được Chính phủ trình Quốc hội thông qua, nhưng khi thực hiện vẫn phải xin ý kiến Thủ tướng chính phủ một lần nữa.
5. Về chính sách tài chính đất đai
Khung giá đất còn chưa phù hợp, chưa sát với thực tế giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường (đặc biệt là khu vực đô thị). Giá đất khu vực nông thôn quy định còn rộng, dẫn đến còn nhiều khu vực chưa sát với thực tế; chính sách thu thuế từ các hoạt động chuyển quyền sử dụng đất, chuyển nhượng dự án, chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất thuê… quy định chưa rõ ràng, chưa đồng bộ với quy định của Luật đất đai, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan thực hiện và phiền hà cho người sử dụng đất.
Việc áp dụng giá đất trong bảng giá đất có giá trị 5 năm để thực hiện nghĩa vụ tài chính (thuế) khi tổ chức, cá nhân thực hiện giao dịch, chuyển nhượng quyền sử dụng đất... là bất hợp lý, thất thu cho ngân sách Nhà nước vì giá trong bảng giá đất có giá trị trong 5 năm mà thị trường giá trị quyền sử dụng đất thay đổi liên tục theo quy luật cung cầu, thực tế giá đất năm sau thường cao hơn năm trước.
Chính sách cho ghi nợ tiền sử dụng đất đối với các hộ có khó khăn về tài chính quy định không cụ thể. Đối tượng là các hộ phát sinh từ hộ chính chủ bị thu hồi đất được giao đất tái định cư (không qua hình thức đấu giá) chưa có quy định cụ thể rõ ràng hơn về thời gian, tỷ lệ số tiền được ghi nợ...
Nhà nước chưa kiểm soát được giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường của người sử dụng đất. Giá đất trên thị trường vẫn để tự do cho tư nhân thao túng theo hướng có lợi cho các nhà kinh doanh bất động sản; vì vậy, có thời điểm giá đất (ảo), không phản ánh đúng giá trị thực tế.
Các quy định về việc Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất thông qua chính sách tài chính về đất đai chưa rõ ràng, cụ thể, như: trường hợp không xác định được giá trị đầu vào để tính thuế thu nhập hoặc lấy giá trị đầu vào tự kê khai của chủ sử dụng đất làm căn cứ để tính thuế là không hợp lý; phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại chưa rõ ràng…
Chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 13, 14 Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg ngày 26/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu chưa xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp nên đã làm thất thu cho ngân sách.
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất còn một số quy định chưa rõ ràng, như: đối tượng được hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm, việc xác định giá đất cụ thể đối với các trường hợp tái định cư tại chỗ, chưa quy định kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong trường hợp chưa có dự án đầu tư (giải phóng mặt bằng theo quy hoạch)…
6. Về quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc nông lâm trường quốc doanh
Chính sách sắp xếp, đổi mới nông, lâm trường quốc doanh thời gian qua thực hiện không hiệu quả, chưa làm thay đổi cơ chế quản lý và quản trị doanh nghiệp; chưa tạo sự chuyển biến theo mục tiêu đề ra. Chính vì buông lỏng quản lý, thực hiện không đúng chính sách khoán nên một số nông, lâm trường không còn là doanh nghiệp nhà nước, nhưng vẫn áp dụng cơ chế chính sách sắp xếp, đổi mới như nhau là không phù hợp.
Việc ban hành một số chính sách quản lý đất nông, lâm nghiệp tại các nông lâm trường theo kiểu hành chính, áp đặt đã làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, gây nên những hậu quả lâu dài và phức tạp, rất khó khắc phục trong quản lý, sử dụng đất đai của các nông, lâm trường.
7. Về quy định cấp mới và cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Việc quy định đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp cấp lần đầu (cấp mới) và cấp đổi chưa phù hợp với thực tế; việc ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp cấp đổi chỉ phù hợp với các trường hợp đăng ký biến động (có thay đổi nhỏ lẻ), chưa phù hợp với cấp đổi đồng loạt theo các dự án xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai.
Công tác giải quyết thủ tục hành chính của các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất chưa hiệu quả, vẫn còn tình trạng trễ hẹn; thủ tục hành chính mới theo Luật Đất đai 2013 chậm được ban hành để thực hiện thống nhất. Bộ máy, biên chế có nơi còn thiếu, trình độ chuyên môn chưa đảm bảo về chất lượng so với yêu cầu của công việc; số lao động hợp đồng có tay nghề cao chưa thực sự yên tâm công tác, một số trường hợp bỏ hợp đồng vì thu nhập thấp; tài sản, cơ sở vật chất trang bị chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, lạc hậu, xuống cấp chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn. Việc thực hiện các hợp đồng đặt hàng của Nhà nước và tìm kiếm thêm các hợp đồng dịch vụ nhằm bảo đảm thu nhập, cải thiện đời sống cho lao động hợp đồng của đơn vị chưa được quan tâm đúng mức.
Công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với hoạt động của thị trường quyền sử dụng đất, nhất là các hoạt động giao dịch còn bị buông lỏng. Nhiều chính sách, quy định của pháp luật đã có hiệu lực nhưng việc hướng dẫn và triển khai thực hiện còn chậm. Hệ thống tổ chức quản lý hoạt động thị trường bất động sản, nhất là thị trường quyền sử dụng đất từ Trung ương đến cơ sở chưa thực sự hoàn chỉnh.
IV. Định hướng nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn hướng hiện đại, bền vững
1. Bối cảnh trong nước và thế giới tác động đến chính sách đất đai phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững
Thế giới đang chuyển biến nhanh hơn, phức tạp hơn và khó đoán định hơn dưới tác động của cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; biến đổi khí hậu; các vấn đề an ninh phi truyền thống, trong đó có an ninh lương thực, an ninh môi trường, an ninh năng lượng, thiên tai, dịch bệnh, nhất là Đại dịch Covid 19...
Kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Nhiều quốc gia điều chỉnh lại chiến lược phát triển theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, tăng cường tính tự chủ, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Các quốc gia chậm trễ trong lựa chọn mô hình phát triển phù hợp sẽ bị bỏ lại xa hơn trong tương lai. Hội nhập, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, tài nguyên, công nghệ, vốn đầu tư và các nguồn tư liệu sản xuất khác... ngày càng gay gắt. Xu thế đô thị hóa, già hóa dân số đang ngày gia tăng.
Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta ngày càng được nâng cao. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang được thúc đẩy cùng với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo thuận lợi hơn cho mở rộng thị trường nông sản, thu hút vốn đầu tư và nguồn chất lực chất lượng cao nhưng cũng tạo nên sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra tầm nhìn và các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045 với lộ trình và bước đi cụ thể . Giai đoạn phát triển mới của Đất nước đang đặt ra các yêu cầu cao hơn về bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế - xã hội trong điều kiện gia tăng dân số, đô thị hóa mạnh mẽ, thoái hóa đất và diện tích đất nông nghiệp đang dần bị thu hẹp; bảo đảm quốc phòng, an ninh; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử trên nền tảng của một quốc gia có vị trí địa kinh tế, địa chính trị, địa chiến lược quan trọng, giàu truyền thống văn hóa, lịch sử với những giá trị vật thể và phi vật thể quý báu...
2. Định hướng hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai trong nông nghiệp, nông thôn
2.1. Sủa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2013
Tổng kết đánh giá thực tiễn thi hành Luật đất đai năm 2013; xây dựng Luật Đất đai mới, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ quan điểm, định hướng đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết mới của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa XIII thay thế Nghị quyết số 19-NQ/TW Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đa số tầng lớp nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ pháp luật, quy hoạch, kinh tế, hành chính và cơ chế theo dõi, giám sát đánh giá phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm từng bước phát huy nguồn lực đất đai cho phát triển nông nghiệp, nông thôn
Bổ sung quy định về đối tượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, theo đó cho phép các tổ chức, cá nhân trong nước có đủ tiềm lực về vốn, công nghệ được nhận quyền chuyển nhượng đất nông nghiệp (kể cả đất lúa, đất rừng phòng hộ) đầu tư vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo quy hoạch đã được phê duyệt (tại Điều 191 Luật Đất đai 2013); đồng thời bỏ quy định hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp mới được nhận chuyển nhượng đất lúa, đất rừng; bỏ điểm b Khoản 1 Điều 179, điều 190 Luật Đất đai 2013 giới hạn việc chỉ được phép chuyển đổi trong cùng xã phường thị trấn. Xây dựng cơ chế tính giá trị của các thửa đất để tạo thuận lợi và xây dựng căn cứ cho các hộ đổi đất với nhau.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp (tại Điều 129 và Điều 130 Luật Đất đai 2013). Xem xét đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến với mức thấp nhất bằng tiền thuê đất lúa của Nhà nước hiện nay để hộ quan tâm đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Bỏ thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp để tăng cường chính thức hóa giao dịch đất nông nghiệp.
Nghiên cứu bổ sung thêm loại đất phục vụ mục đích hỗ trợ sản xuất nông nghiệp vào phân loại đất phi nông nghiệp. Đối với loại đất này, để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động trước và sau sản xuất nông nghiệp (như xưởng thiết bị nông nghiệp, logistics, chế biến, nhà kho lưu trữ, bảo quản nông sản) trên đất nông nghiệp sau khi chuyển mục đích sủ dụng, theo nguyên tắc diện tích được phép chuyển mục đích sử dụng tương ứng với sản lượng tạo ra từ vùng chuyên canh. Quy định rõ ràng về hai trường hợp góp vốn chuyển quyền sử dụng đất và góp vốn không chuyển quyền sử dụng đất. Xây dựng cơ chế pháp lý để doanh nghiệp nhận góp vốn thông qua nhận quyền sử dụng đất có thể thế chấp để vay vốn ngân hàng tại Luật Đất đai 2013 và Luật Doanh nghiệp 2014.
Sửa Điều 58, Luật Đất đai 2013 theo hướng cho phép cấp tỉnh thẩm định phương án chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa sang các mục đích nông nghiệp, chăn nuôi và thủy sản với diện tích dưới 300 ha theo quy hoạch. Tiếp tục nghiên cứu cơ chế chính sách cho phép chuyển đổi linh hoạt giữa đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất cho chăn nuôi, đất nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch và đảm bảo các điều kiện về môi trường. Cho phép doanh nghiệp sử dụng một phần diện tích nhất định để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp (Nghị định số 35/2015/NĐ-CP).
2.2. Nâng cao chất lượng việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đảm bảo tính liên kết, đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất theo hướng quy hoạch sử dụng đất phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý, hiệu quả đất đai cho các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và đơn vị hành chính; các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải phù hợp với các chỉ tiêu, tiến độ sử dụng đất được phân bổ trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Vấn đề ô nhiễm đất, thoái hoá đất, sa mạc hoá, tác động của biến đổi khí hậu đang và sẽ làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, giảm năng suất, sản lượng cây trồng. Sự mất cân bằng về sinh thái cũng dẫn đến biến đổi khí hậu làm tăng thiên tai tác động đến sử dụng đất. Do đó, việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải gắn chặt với các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng; cần chủ động có những chính sách, đối sách phù hợp ngay từ bây giờ.
Ngoài việc nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, việc quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là vấn đề hết sức quan trọng. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được quan tâm thường và đi vào thực chất, đặc biệt là việc quản lý, sử dụng đất theo các chỉ tiêu quy hoạch đã được phê duyệt.
2.3. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản; đo đạc, lập hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Thực hiện tổng điều tra về đất đai, trong đó tập trung xác định diện tích một số loại đất quan trọng; đánh giá tiềm năng và chất lượng tài nguyên đất, đặc biệt chú trọng đến các vùng có nguy cơ thoái hóa, xâm nhập mặn, ngập úng, khô hạn, hoang mạc hóa, xói mòn, rửa trôi, ô nhiễm đất. Đổi mới phương pháp thực hiện và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong công tác thống kê, kiểm kê đất đai định kỳ và theo chuyên đề nhằm cung cấp số liệu chính xác phục vụ công tác quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội.
Tập trung chỉ đạo hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận theo bản đồ địa chính chính quy theo Nghị quyết số 39/2012/QH13 của Quốc hội. Đổi mới quy trình công nghệ trong việc đo đạc, lập hồ sơ địa chính; đẩy mạnh việc thực hiện đăng ký và cập nhật biến động đất đai, chỉnh lý hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Tập trung xây dựng hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai.
2.4. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai minh bạch và hiệu quả
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế hoạt động và tăng cường quản lý đối với Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất và Tổ chức phát triển quỹ đất; từng bước chuyển Tổ chức phát triển quỹ đất sang mô hình doanh nghiệp phát triển quỹ đất; phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ về đất đai như dịch vụ tư vấn về giá đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đo đạc và bản đồ địa chính, thông tin đất đai...Củng cố kiện toàn hệ thống thanh tra đất đai, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân các cấp; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ xét xử đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; nghiên cứu để triển khai mô hình cơ quan tài phán đất đai nhằm giải quyết các tranh chấp đất đai kéo dài.
Cùng với kiện toàn tổ chức các cơ quan quản lý đất đai cần thiết lập hệ thống, theo dõi đánh giá nhằm tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, cơ quan Nhà nước ở Trung ương và của nhân dân đối với quản lý và sử dụng đất đai. Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ nhằm phát triển nguồn nhân lực ngành Quản lý đất đai đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng phù hợp với các tiêu chuẩn, vị trí việc làm; ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao và cán bộ cơ sở vùng sâu, vùng xa. Xây dựng cơ chế chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao.
2.5. Cải cách thủ tục hành chính, nghiên cứu và từng bước hiện đại hóa đất đai, triển khai thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai; phân cấp việc quy định trình tự, thủ tục hành chính về đất đai và gắn với trách nhiệm giải quyết của từng cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với chủ trương, yêu cầu cải cách thủ tục hành chính và điều kiện cụ thể theo từng giai đoạn; rà soát, đơn giản hóa các thủ tục hành chính về đất đai từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở; bổ sung các thủ tục còn thiếu và cần thiết, loại bỏ các thủ tục trùng lặp. Công khai các thủ tục hành chính và có cơ chế giám sát việc thực hiện. Hoàn thiện quy chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan có liên quan trong việc thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện các thủ tục hành chính. Từng bước triển khai thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai. Thí điểm thực hiện giao dịch một số quyền của người sử dụng đất qua mạng internet.
Vấn đề đất đai là vấn đề hết sức quan trọng có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; việc quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội trọng những năm tới. Do đó, đòi hỏi phải có sự quyết tâm, nỗ lực của hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của nhân dân.
2.6.Hoàn thiện cơ chế, chính sâchs tích tụ, tập trung đất đai
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về sự cần thiết phải tích tụ, tập trung đất đai để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện có năng suất cao, hiệu quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Đảm bảo phân bổ hài hòa, hợp lý giữa các mục tiêu sử dụng đất, giữa đất trồng cây lương thực, đất trồng rừng, đất phi nông nghiệp, đất dịch vụ, đất chỉnh trang và phát triển đô thị. Phải lập quy hoạch vùng sản xuất chuyên canh và giám sát thực hiện quy hoạch đối với một số mặt hàng nông sản chiến lược, mặt hàng xuất khẩu chủ lực, quy hoạch đất cho chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; quy hoạch chuyển đổi đất trồng lúa không hiệu quả sang trồng cây nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, rau, nuôi trồng thủy sản và các sản phẩm giá trị cao khác; bảo vệ đất lúa nhưng cho phép thay đổi linh hoạt mục đích sử dụng giữa lúa và các cây trồng khác. Quy hoạch về chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao …
Mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp để bảo đảm việc tích tụ đất nông nghiệp phù hợp với tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, đáp ứng tốt xu hướng phát triển của nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn. Tuy nhiên, cần tăng cường sử dụng công cụ thuế và các chế tài mới để hạn chế, ngăn ngừa các hành vi “gom” đất nhằm mục đích đầu cơ, trục lợi đi ngược lại nhu cầu tích tụ, tập trung đất nông nghiệp vì mục đích phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn. Xử lý nghiêm các hình thức tích tụ ruộng đất theo kiểu bắt bí hộ đói nghèo... để mua rẻ, hoặc thu hồi đất “bờ xôi, ruộng mật”, lập dự án treo, hay phân lô bán nhằm làm giàu bất chính vì lợi ích của một nhóm người nào đó.
Xây dựng chính sách khuyến khích việc tích tụ, tập trung ruộng đất để sản xuất, kinh doanh, xóa đói giảm nghèo bền vững; đặc biệt là đối với việc hình thành chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp tập trung quy mô lớn. Chính sách thúc đẩy tích tụ đất đai phải khuyến khích, tạo điều kiện cho những nông dân có năng lực sản xuất nông nghiệp tích tụ được đất, được hỗ trợ về vốn để mua đất, thuê đất, đầu tư trang thiết bị phục vụ sản xuất, được hỗ trợ về cơ sở hạ tầng như đường giao thong, điện lưới… Đồng thời chính sách thúc đẩy tích tụ đất đai phải gắn với thị trường lao động, thậm chí là gắn với quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn: làm sao tạo ra việc làm và thu nhập phi nông nghiệp một cách chính thức để rút mạnh lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp.
Rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, đặc biệt trong đăng ký đất đai và giao dịch đất đai trên thị trường quyền sử dụng đất; thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật đất đai. Hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả, minh bạch trong quản lý và sử dụng đất đai.
Nghiên cứu tháo gỡ các rào cản về thể chế nhằm phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong đó có thị trường về quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói chung và về đầu tư công cho NN-NT nói riêng cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn; Tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực NN-NT, nhất là vùng sâu, vùng xa. Nghiên cứu, đề xuất chính sách mới khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa doanh nghiệp đầu tư vào NN-NT theo hướng liên kết với HTX, trang trại, gia trại, nông dân để sản xuất nông nghiệp hàng hóa có chất lượng và giá trị gia tăng cao theo chuỗi giá trị. Hỗ trợ giải quyết vấn đề đầu vào và đầu ra cho nông nghiệp. Sửa đổi một số chính sách ưu đãi về thuế (đất đai, vật tư nông nghiệp, VAT…).
Hoàn thiện cơ chế, chính sách giúp tăng cường khả năng tiếp cận đất đai của doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài). Trong đó, đối với lĩnh vực nông nghiệp, cần nghiên cứu cơ chế cho nhà đầu tư nước ngoài thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất trực tiếp của hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án (trong đó cần chú ý việc thực hiện dự án tại các khu vực nhạy cảm về quốc phòng, an ninh). Tiếp tục sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai cho phù hợp với thực tiễn về vấn đề này.
Thúc đẩy phát triển nông nghiệp, trên cơ sở cơ cấu lại đầu tư, có phương án, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, nâng cao hơn mức độ đầu tư cho kinh tế nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo sự hấp dẫn cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
Gắn việc tích tụ ruộng đất, phát triển nông nghiệp quy mô lớn với giải quyết vấn đề chuyển đổi nghề, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp và đào tạo nghề mới cho nông dân. Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, dịch vụ. Đổi mới công tác đào tạo nghề nông thôn về cả hình thức và nội dung theo hướng thiết thực, hiệu quả. Đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật, quản lý sản xuất đối với nông dân sản xuất hàng hoá nông sản; đồng thời chú trọng đào tạo nghề phục vụ cho chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Xã hội hoá đào tạo nghề nông thôn nhằm huy động, khai thác tốt nguồn lực xã hội, mà quan trọng hơn là ngành nghề, chất lượng đào tạo phù hợp với nhu cầu lao động của xã hội.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng, định hướng và thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” bằng cơ chế, chính sách pháp luật với các công cụ kinh tế thích hợp. Cần xây dựng chính sách an sinh xã hội cho những đối tượng không có khả năng tham gia sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi tích tụ ruộng đất.
2.7. Đổi mới chính sách sử dụng đất nông nghiệp linh hoạt, hiệu quả
Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng đối với từng loại đất phù hợp với mục đích sử dụng và đất có mục đích sử dụng hỗn hợp. Quy định chế độ quản lý, sử dụng đất theo không gian ngầm và trên không. Luật hóa quy định cho phép linh hoạt chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất trồng lúa nhưng phải đảm bảo các điều kiện canh tác để quay lại tiếp tục trồng lúa khi cần. Thu hẹp diện tích đất trồng lúa phải bảo vệ nghiêm ngặt phù hợp với quan điểm an ninh lương thực theo cách tiếp cận phát triển chung của đất nước, khu vực, thế giới; cho phép nông dân được linh hoạt trong chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trồng lúa phù hợp với tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai.
Mở rộng đối tượng là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng đất lúa để tổ chức sản xuất kinh doanh theo quy hoạch sử dụng đất. Mở rộng hạn mức nhận chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đối với từng loại đất nông nghiệp phù hợp với thực tiễn sản xuất của từng vùng, miền.
Giữ ổn định diện tích đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng và rừng sản xuất là rừng tự nhiên, linh hoạt trong việc xác định loại cây rừng, kết hợp nhiều mục đích; quản lý đất nông nghiệp theo chức năng của đất, mục đích sử dụng đất; thống nhất việc chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng rừng trong một hồ sơ.
2.8. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về đất đai
Để các chủ trương, chính sách đúng đắn đi vào thực tiễn cuộc sống, việc tổ chức thực thi pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Cần chú trọng thường xuyên công tác tập huấn, đào tạo, quán triệt các chính sách pháp luật về tài nguyên và môi trường cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài nguyên và môi trường các cấp để thực thi đúng, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Công tác tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về tài nguyên và môi trường cho nhân dân để tạo sự đồng thuận của toàn xã hội đồng thời thực hiện nghiêm túc cần được quan tâm thường xuyên.
Cùng với đó, công tác thanh tra, kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các điểm nóng, các vấn đề bức xúc để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các sai phạm. Thanh tra, kiểm tra phải đi liền với xử lý trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và người đứng đầu tổ chức để xảy ra sai phạm trong quản lý sử dụng đất đai. Quá trình thanh tra, kiểm tra phát hiện những cơ chế, chính sách không còn phù hợp để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện.
Tăng cường công tác hòa giải tranh chấp đất đai, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai đảm bảo công bằng, khách quan và minh bạch. Tập trung xử lý dứt điểm các tranh chấp đất đai phức tạp, kéo dài, đặc biệt là các vụ việc tranh chấp liên quan đến đất quốc phòng, an ninh, đất của các nông, lâm trường./.