Xe tăng lội nước PT-76
Xe tăng lội nước PT-76 được phát triển một thời gian ngắn sau chiến tranh Thế giới thứ 2 và gia nhập biên chế Quân đội Liên Xô năm 1954, nó được định nghĩa đầy đủ là “xe tăng lội nước hạng nhẹ” với kíp lái 3 người và có thể lội (hay bơi) qua các vùng nước sâu để tiếp cận mục tiêu. PT-76 được sử dụng rộng rãi trong quân đội các nước khối Warsaw và các quốc gia thân thân thiện với Liên Xô.
Lúc đầu, PT-76 được sử dụng như là xe tăng trinh sát tiêu chuẩn của khối Warsaw. Mặc dù sau đó nó đã bị thay thế trong các đơn vị tiền phương bởi BMP-1 và BMP-1976, nó vẫn được sử dụng trong các đại đội, tiểu đoàn trinh sát của các sư đoàn bộ binh cơ giới, xe tăng cũng như lực lượng Hải quân đánh bộ.
Bên cạnh chức năng trinh sát, PT-76 còn được dùng để tiếp cận mục tiêu qua địa hình nước trong đợt tấn công đầu tiên, dùng pháo bắn thẳng nhằm thiết lập đầu cầu. Động cơ V-6 công suất 240 mã lực giúp PT-76 đạt tốc độ tối đa 44km/h và dự trữ hành trình 260km, và bên cạnh đó là hai động cơ chuyên bơi dưới nước giúp xe đạt tốc độ 10km/h với tầm bơi tối đa 100km.
|
PT-76 diễn tập với lính Hải quân đánh bộ Việt Nam.
|
Vũ khí của PT-76 đúng theo “chuẩn” từ thời chiến tranh Thế giới thứ 2 với pháo chính 76,2mm tầm hiệu quả khoảng 1.500m, gắn trên tháp pháo có góc nâng từ -4° đến +30° và bắn các loại đạn pháo tiêu chuẩn sau: Từ đạn nổ đến đạn xuyên giáp AP-T và đạn nổ mảnh HE-Frag, chỉ có thể hạ các mục tiêu bọc giáp mỏng hoặc xe bọc thép.
Ngoài ra PT-76 còn có một khẩu khẩu súng máy đồng trục 7,62mm và khi cần có thể lắp đại liên 12,7mm lên tháp pháo (PT-76 của Việt Nam đã thực hiện điều này và bắn rơi máy bay phản lực Mỹ).
Về thiết kế, PT-76 có nhiều điểm tương đồng với xe bọc thép BTR-50P, tên lửa phòng không di động SA-6 Gainful và pháo phòng không tự hành ZSU-23-4. Thùng dầu dự trữ có thể mang trên xe để tăng tầm hoạt thêm 110km lên 370km.
|
PT-76 Hải quân đánh bộ sẵn sàng lên tàu chi viện cho đảo xa.
|
Ưu điểm lớn nhất của PT-76 dĩ nhiên là khả năng lội nước không cần chuẩn bị trước của nó bên cạnh các nhược điểm như không có hệ thống phòng chống vũ khí hủy diệt lớn NBC, kích cỡ khá to và giáp mỏng. Ngoài ra, góc hạ pháo thấp khiến nó không thể bắn từ trên cao xuống một cách hiệu quả. Giáp mỏng (thân xe chỗ giáp dày nhất là 14mm và tháp pháo dày nhất là 17mm) cũng có thể bị xuyên thủng bởi đạn 12,7mm xuyên giáp. Kíp lái 3 người khiến trưởng xe cũng phải làm các chức năng của pháo thủ, khiến khả năng quan sát tổng thể của trưởng xe bị giảm đi.
Tổng số PT-76 được xuất xưởng vào khoảng 7.000 chiếc, chiếc PT-76 cuối cùng gia nhập biên chế trong Quân đội Liên Xô là vào năm 1967, trong khi Trung Quốc sản xuất phiên bản xe tăng này với pháo 85mm mà ta hay gọi là PT-85. Phiên bản của Việt Nam đa phần là mẫu PT-76 với pháo 76mm D-56TM có loa giảm giật và bọng hút khói.
|
Bơi nước tốt là một ưu điểm của PT-76.
|
Trong biên chế Lữ đoàn Hải quân đánh bộ Việt Nam, sẽ có 1 tiểu đoàn xe tăng sử dụng PT-76 với nhiệm vụ là "nắm đấm" chính của Lữ đoàn trong nhiệm vụ đột kích, khả năng bơi nước của nó rất cần thiết với môi trường hoạt động chủ yếu đổ bộ từ biển vào của lực lượng Hải quân đánh bộ, là nắm đấm đầu tiên của Lữ đoàn và yểm hộ cho thê đội xe bọc thép BTR-60PB đi sau chở lính Hải quân Đánh bộ xác lập đầu cầu. Tiểu đoàn PT-76 sẽ sử dụng pháo lẫn súng máy của mình dập tắt các hỏa điểm gần khu đổ bộ, phản kích bộ binh và tăng thiết giáp đối phương khi chúng muốn chiếm lại bàn đạp của ta.
|
Phối hợp đổ bộ từ tàu "há mồm" lữ đoàn tàu vận tải 125.
|
Tuy nhiên, việc Hải quân đánh bộ sử dụng PT-76 đơn giản là rất cố gắng vì PT-76 đã rất lạc hậu so với các loại xe tăng lội nước của các nước trong khu vực như ZLT-05 của Trung Quốc, loại xe với pháo chính 105mm lẫn các hệ thống quan sát, ngắm bắn hiện đại hay BMP-3F của Indonesia.
Mặc dù vậy, các Lữ đoàn Hải quân đánh bộ với các xe tăng PT-76 bóng loáng, nằm chờ hàng dài trong các nhà kho luôn sẵn sàng nhận lệnh bảo vệ biển đảo của Tổ quốc, trong mỗi Lữ đoàn luôn có ít nhất một đại đội tăng bên cạnh các tiểu đoàn lính Hải quân đánh bộ luôn trong tư thế trực chiến làm nhiệm vụ CV (chi viện).
|
Xung kích đi đầu trong đổ bộ.
|
Thông số kỹ thuật
Năm biên chế đầu tiên: 1954
Kíp lái: 3 người
Dài Cao Rộng(m): 6,91x2,26x3,14
Tốc độ tối đa: 44km/h
Dự trữ hành trình: 260km
Hệ thống bảo vệ NBC: Không
Vũ khí: Pháo 76mm tốc độ bắn 6-8 viên/phút và súng máy 7,62mm
Xe bọc thép lội nước chở quân BTR-60PB
Xe bọc thép 8 bánh BTR-60 được ra đời nhằm thay thế cho loại BTR-152 của những năm 1950. BTR-60 là một bước phát triển vượt bậc trên nhiều phương diện, có thể nói là cách mạng trong thực tế. Nó cung cấp cho Quân đội Liên Xô một phương tiện cực kì cơ động trên mọi địa hình lẫn khả năng bơi nước tốt, bảo vệ tốt cho binh sĩ trong xe lẫn hỏa lực không hề yếu.
Thiết kế được xem là mẫu BTR đầu tiên trong dòng họ BTR danh tiếng vốn sẽ là dòng xe bọc thép chủ lực của Liên Xô/Nga đến thế kỉ 21. BTR-60 được giới thiệu vào tháng 12/1959 và gia nhập biên chế năm 1960 (nên được đặt tên là BTR-60), với khoảng 25.000 chiếc được sản xuất tại Liên Xô đến năm 1976.
|
BTR-60 của lữ đoàn Hải quân đánh bộ 147.
|
Thiết kế của BTR-60, rút kinh nghiệm từ những khuyết điểm của các mẫu BTR-152 và BTR-40 sau chiến tranh Thế giới thứ 2, nằm trong chương trình tái tổ chức đội hình quân đội Liên Xô. BTR-60 sau đó được biên chế nằm chung đội hình với xe thiết giáp tấn công bánh xích BMP-1. Thiết kế của BTR-60 được ghi công cho V.A. Dedkov trong khi chữ “BTR” viết tắt từ chữ “BronTRanspoter” có nghĩa là “xe bọc thép vận chuyển”.
Thời điểm ra đời, BTR-60 mang những ưu điểm tốt nhất mà một chiếc APC (xe bọc thép chở quân) có thể có: Giáp thép bọc toàn thân, tháp pháo đặt giữa thân xe, bốn bánh lốp to mỗi bên. Khối lượng BTR-60 vào khoảng 14,1 tấn với kíp lái tiêu chuẩn 3 người và khoang chở lính đặt ở giữa xe. Giáp xe khá mỏng, khoảng 5mm ở cửa hông và dày 10mm ở tháp pháo.
|
BTR-60 của lữ đoàn Hải quân đánh bộ 101.
|
BTR-60 sử dụng 2 động cơ GAZ-40P cho công suất tổng cộng 180 mã lực. Động cơ đặt ở đuôi xe khiến cửa ra vào của tốp lính bộ binh phải đặt trên nóc, động cơ của BTR-60 giúp xe đạt tốc độ tối đa 80km/h trên đường nhựa và dự trữ hành trình 600km. BTR-60 được thiết kế để bơi nước toàn diện (như nhiều xe khác của quân đội Liên Xô cho trang bị của họ trên chiến trường Châu Âu), tốc độ bơi của nó là 10km/h nhờ hai hệ thống bơi nước chuyên dụng sau đuôi.
Phiên bản BTR-60 được đưa vào biên chế Liên Xô năm 1960 là mẫu BTR-60P, nó chở được 16 lính và gắn súng máy 7,62mm. Tuy vậy thì việc không bọc giáp nóc khiến cho khả năng bảo vệ kíp lái lẫn binh sĩ theo xe bằng 0 nên nhanh chóng được thay thế bằng mẫu BTR-60PA với thông số y hệt, chỉ khác là nóc xe đã được bọc giáp, về sau BTR-60PA được lắp thêm đại liên 12,7mm DShK 1938/46 với 500 viên, đặt tên là BTR-60PA-1.
Tiếp theo sau là phiên bản BTR-60PAI với tháp pháo gắn trọng liên 14,5mm KVPT và súng máy đồng trục 7,62mm, cuối cùng là mẫu BTR-60PB với sự khác biệt ở chỗ kíp lính theo xe giảm từ 16 xuống 14 người, ngược lại pháo thủ sẽ có thêm kính ngắm, đây là phiên bản BTR-60 có trong biên chế Quân đội Nhân dân Việt Nam.
|
Hải quân đánh bộ Việt Nam lên đường.
|
Có hơn 40 quốc gia trên thế giới sử dụng BTR-60 với rất nhiều biến thể vẫn hữu dụng cho đến ngày nay và thực sự đây là một loại xe thiết giáp thành công trong lịch sử chiến tranh Lạnh.
BTR-60 được sử dụng nhiều trong Quân đội Việt Nam trong các đơn vị “thiện chiến”, có thể kể đến như Lữ đoàn 144 “Cận vệ thép” hay Bộ tư lệnh thủ đô và đặc biệt là trong Hải quân. Tiểu đoàn tăng thiết giáp thứ 2 của một Lữ đoàn Hải quân đánh bộ sử dụng BTR-60PB, sẽ chở bộ đội đổ bộ từ tàu, tiếp cận mục tiêu theo sau PT-76 đột kích, giáp bảo vệ và hỏa lực súng máy đi kèm sẽ bảo vệ bộ đội khỏi hỏa lực súng máy và mảnh pháo trong quá trình đổ bộ.
Có thể nói, với lực lượng 2 tiểu đoàn trong đội hình 7 tiểu đoàn hỗn hợp của Lữ đoàn Hải quân đánh bộ, PT-76 và BTR-60 là nắm đấm thép cơ giới hóa thể hiện sức mạnh cơ động và đặc thù tác chiến trên biển. Các đơn vị BTR-60, cũng nằm trong lực lượng sẵn sàng chiến đấu, làm nhiệm vụ CV của Lữ đoàn.
|
Những người lính với trang bị hiện đại của hải quân quanh chiếc xe bọc thép BTR-60.
|
Hiện nay, không nhiều đơn vị biên chế xe tăng, xe bọc thép cạnh bộ binh trong đội hình Trung/Lữ đoàn, điều đó cho thấy mặc dù trang bị không phải hiện đại (PT-76 hay BTR-60 đều là công nghệ của những năm 1950-1960) nhưng cơ cấu Lữ đoàn Hải quân đánh bộ Việt Nam là một nắm đấm cơ giới cực mạnh, bên cạnh các loại vũ khí bộ binh thuộc hàng hiện đại nhất (Tavor, trung liên Negev, PKMS, bắn tỉa Galil hay súng chống tăng Matador). Hơn thế nữa, Lữ đoàn này còn được biên chế các tiểu đoàn pháo hỏa lực mạnh mẽ như 152mm hay 130mm, sẽ được nói đến ở kì sau.
|
BTR-60 song hành cùng PT-76 trong diễn tập.
|
Thông số kỹ thuật
Năm biên chế đầu tiên: 1960
Kíp lái (người): 3 + 14 binh sĩ theo xe
Dài Cao Rộng(m): 7,54x2,8x2,32
Tốc độ tối đa: 80km/h
Dự trữ hành trình: 600km
Hệ thống bảo vệ NBC: Có
Kính ngắm: Kính hồng ngoại cho trưởng xe và lái xe.
Vũ khí: Súng máy 14,5mm và súng máy 7,62mm