GS.TS Nguyễn Bá Đức, Phó Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam cho biết, một số nghiên cứu tại Mỹ cho rằng, phụ nữ dưới 18 tuổi hoặc trên 30 tuổi có sử dụng thuốc kích thích phá thai sẽ làm tăng tỷ lệ ung thư vú gấp 2 lần so với những phụ nữ chưa bao giờ nạo phá thai.
Nạo phá thai vào tuần thứ 9 đến tuần thứ 12 cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú gấp 2 lần.
Cuộc tranh cãi nảy lửa xuyên thể kỷ
Trong suốt một phần tư thế kỷ qua, vấn đề nạo phá thai và căn bệnh ung thư vú đã gây ra nhiều cuộc tranh luận nảy lửa trong giới khoa học. Một số nghiên cứu cho rằng, những người từng phá thai hoặc bị sảy thai tự phát rất dễ mắc bệnh ung thư vú. Trong khi đó, số khác lại không tìm ra bằng chứng ủng hộ mối quan hệ này.
Trong bối cảnh đó, tiến sĩ Valerie Beral và cộng sự thuộc Viện nghiên cứu Ung thư Anh trong nhiều năm đã thu thập và tái phân tích số liệu thô từ hơn 80.000 phụ nữ tham gia vào 53 nghiên cứu trên khắp thế giới. Kết quả là không có mối liên hệ nào giữa việc nạo phá thai hoặc sảy thai và căn bệnh ung thư vú được ghi nhận. Beral hy vọng rằng kết quả trên sẽ là một tin tốt lành đối với hàng triệu phụ nữ đang ngày đêm lo lắng về một kết cục bi thảm của câu chuyện mang thai không thành (do chủ quan hoặc khách quan).
Tuy nhiên, theo những nghiên cứu khác được công bố, hiện tượng chấm dứt thai kỳ quá sớm vì bất kỳ lý do nào đều có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh ung thư. Nguyên nhân đưa ra là những hoóc môn sản sinh trong suốt quá trình mang thai đem lại những biến đổi hữu ích giúp mô vú không bị ung thư. Song một khi quá trình mang thai bị dừng đột ngột, hoạt động của mô vú cũng sẽ bị gián đoạn, làm cho chúng dễ bị ung thư hơn.
Cuộc tranh cãi về căn bệnh ung thư vú và việc nạo phá thai sẽ còn rất nóng bỏng trong tương lai. Vào năm 2003, Viện ung thư Mỹ đã chủ trì một cuộc hội thảo và đi đến kết luận rằng "nạo phá thai hay sảy thai đều không làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú". Tuy nhiên, ngay sau đó, chính quyền bang Texas đã đưa ra một điều luật, cho rằng những phụ nữ nạo phá thai có quyền được cảnh báo về nguy cơ mắc bệnh.
Phá thai và ung thư vú theo kiến thức hiện đại
Vào tháng 2/2003, Viện Ung thư Quốc gia Mỹ (NCI) đã triệu tập một hội thảo của hơn 100 chuyên gia hàng đầu của thế giới những người nghiên cứu mang thai và nguy cơ ung thư vú. Tham gia hội thảo xem xét hiện dựa trên dân số, lâm sàng và nghiên cứu động vật trên mối quan hệ giữa thời kỳ mang thai và nguy cơ ung thư vú, bao gồm cả nghiên cứu về nạo phá thai và tự phát.
Kết quả từ những nghiên cứu cho rằng không có sự gia tăng nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ đã từng nạo hút thai, trong khi những phát hiện từ các nghiên cứu khác cho thấy có nguy cơ tăng lên.
Chỉ có một số ít phụ nữ đã được bao gồm trong rất nhiều những nghiên cứu, và đối với hầu hết, các dữ liệu được thu thập chỉ sau ung thư vú được chẩn đoán, và lịch sử của phụ nữ bị sẩy thai và phá thai dựa trên “tự báo cáo” của họ chứ không phải là của họ hồ sơ y tế.
Hiện nay, các yếu tố được biết đến để tăng cơ hội của phụ nữ phát triển ung thư vú bao gồm tuổi tác (nguy cơ gia tăng bệnh ung thư vú khi lớn lên), tiền sử gia đình bị ung thư vú, kinh nguyệt sớm, cuối thời kỳ mãn kinh, sinh con muộn và một số điều kiện khác.
Béo phì cũng là một yếu tố nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau mãn kinh. Thêm thông tin về các yếu tố nguy cơ ung thư vú được tìm thấy trong ấn phẩm NCI Những gì bạn cần biết về ung thư vú.
NCI khuyến cáo rằng, bắt đầu ở độ tuổi 40, phụ nữ được sàng lọc chụp nhũ ảnh mỗi năm hoặc hai năm và đi kham phu khoa định kỳ. Những phụ nữ có nguy cơ cao hơn so với trung bình của bệnh ung thư vú (ví dụ, phụ nữ có tiền sử gia đình bị ung thư vú) nên tìm kiếm sự tư vấn y tế chuyên gia về việc liệu họ nên được kiểm tra trước khi 40 tuổi, và mức độ thường xuyên nên được kiểm tra.