|
Biển Đông bị biến thành "mắt bão" ở Tây Thái Bình Dương.
|
Hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương đang mang lại cho Mỹ cái cớ “tuyệt vời” để tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực. Đặc biệt, việc Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông đã cho phép Mỹ đóng vai trò “bảo vệ” các nước nhỏ trong khu vực trước hành động bành trướng, bá quyền của Trung Quốc.
Trong thời gian gần đây, Trung Quốc đã tiến hành một loạt các hành động khiêu khích: chiếm đóng bãi cạn Scarborough và cấm ngư dân Philippines lai vãng đến khu vực này; tăng cường hiện diện quân sự ở Bãi Cỏ Mây để thực thi cái gọi là “Chiến lược cải bắp” thâu tóm toàn bộ Biển Đông. Thiếu tướng Trung Quốc Zhang Zhaozhong giải thích rằng “Chiến lược cải bắp” là bao vây bãi cạn Scarborough, Bãi Cỏ Mây và các vùng biển đảo khác…với một lực lượng hải quân đông đảo để chặn đường tiếp viện của đối phương.
“Đường lưỡi bò”: Mưu toan "cướp biển" lớn nhất thế kỷ 21
Trong một công hàm đệ trình lên Liên Hợp Quốc hồi tháng 7/2009, Trung Quốc khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các quần đảo ở Biển Đông và “những vùng biển liền kề/liên quan”.
Đi kèm với công hàm vô lối nói trên là cái gọi là bản đồ “đường chín đoạn” vô cùng phi lý để xác định các yêu sách của Trung Quốc trong khu vực. Không hề có luận cứ nào phù hợp với luật pháp quốc tế, Trung Quốc ngang nhiên nói các đảo và các vùng biển xung quanh ở Biển Đông là lãnh thổ do “tổ tiên” để lại. Đáng chú ý là cái gọi là bản đồ “đường chín đoạn” vô căn cứ này lại do chế độ Quốc dân đảng tự vẽ hồi cuối những năm 1940, một chế độ “phản động” đã bị chính những người cộng sản Trung Quốc đánh đuổi khỏi Đại lục.
Cái bản đồ “đường lưỡi bò” này liếm trọn Biển Đông, tước bỏ các vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các bên tranh chấp khác như Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei - theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với vùng biển nằm trong “đường lưỡi bò” và chỉ để lại cho một số bên tranh cãi một vùng lãnh hải rộng có 12 hải lý tính từ bờ biển.
Tuy nhiên, yêu sách tham lam vô độ này của Trung Quốc ở Biển Đông đã đụng chạm đến lợi ích thiết thân của cộng đồng quốc tế. Với cái bản đồ “đường lưỡi bò” phi lý và tham lam vô độ này, Trung Quốc mưu toan biến một vùng biển quốc tế rộng tới 3,5 triệu km2 này thành “ao nhà” giống như hồ Michigan của nước Mỹ. Đáng chú ý, Biển Đông vốn là tuyến hàng hải tối quan trọng, vận chuyển hơn 1/3 tổng khối lượng thương mại toàn cầu. Nếu cộng đồng thế giới không lên tiếng phản đối, yêu sách “đường chín đoạn” này sẽ là một vụ “cướp biển” lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Mưu đồ của Trung Quốc
Từ lâu, Trung Quốc đã nhòm ngó nguồn thủy sản, trữ lượng dầu khí phong phú ở Biển Đông. Tuy nhiên, hành động của nước này đã trở nên ráo riết hơn, ngang ngược hơn trong thời gian gần đây.
Có hai giả thuyết về hành vi của Trung Quốc. Thứ nhất, hành vi này bắt nguồn từ tâm trạng bất an. Lập trường ngày càng hung hăng của Trung Quốc xem ra bắt nguồn từ sự thiếu tự tin do tăng trưởng kinh tế tốc độ cao dẫn đến nguy cơ khủng hoảng kinh tế ở nước này.
Giả thuyết thứ hai là các động thái ngang ngược nói trên của Trung Quốc phản ánh tính toán lạnh lùng về sức mạnh kinh tế-quân sự gia tăng. Nó nằm trong mưu đồ độc quyền các nguồn tài nguyên hải sản và dầu khí ở toàn bộ Biển Đông, trong tham vọng độc bá khu vực và sau đó là bá chủ toàn cầu.
Các hành động bá quyền ngang ngược của Bắc Kinh đã khiến cho các nước láng giềng cảnh giác và lo ngại. Vô hình chung, Trung Quốc đang đẩy một số nước láng giềng về phía Mỹ, biến Washington trở thành một vị cứu tinh - một đối trọng quân sự với Bắc Kinh trong khu vực.
Chính sách “xoay trục” của Mỹ
Theo nhiều nhà phân tích, chiến lược “xoay trục” của chính quyền Obama là một sự rút lui khỏi chiến lược thống trị quân sự toàn cầu dưới thời Tổng thống tiền nhiệm George W Bush. Nó được thiết kế để làm bình phong cho một cuộc rút lui có chừng mực của Mỹ khỏi Trung Đông và Tây Nam Á.
Chính sách “xoay trục” sang Châu Á-Thái Bình Dương nhằm tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ ở khu vực, với 60% sức mạnh hải quân Mỹ được chuyển tới Tây Thái Bình Dương. Động thái này đi kèm với việc triển khai nhanh của các đơn vị Thủy quân lục chiến Mỹ, trải dài từ Okinawa qua Guam đến Australia. Lực lượng đặc biệt Mỹ tiếp tục tham gia chiến dịch chống lại các phần tử Hồi giáo cực đoan ở miền Nam Philippines, trong khi vẫn tham gia tập trận đánh chiếm biển đảo với các đơn vị quân đội Philippines gần quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough. Diễn biến gần đây nhất là chính phủ Philippines dự kiến sẽ cho phép các lực lượng Mỹ tiếp cận nhiều các căn cứ Philippines, trong đó có căn cứ hải quân khổng lồ của Mỹ trước đây ở Vịnh Subic.
Chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy ở Nhật Bản
Các hành động của Trung Quốc và Mỹ đã là quá đủ để khiến cho Tây Thái Bình Dương dậy sóng. Thế nhưng, khu vực này còn có một nguồn “gây bão” bất ổn thứ ba và đó là Nhật Bản. Cánh hữu Nhật Bản, trong đó có đương kim Thủ tướng Abe, đã lợi dụng các hành vi bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và tranh chấp Trung-Nhật liên quan đến quần đảo Senkaku/Điếu Ngư để thúc đẩy việc bãi bỏ Điều 9 của Hiến pháp hòa bình Nhật Bản, trong đó nghiêm cấm chiến tranh như một công cụ của chính sách đối ngoại và ngăn ngừa Nhật Bản thành lập một quân đội chính qui đầy đủ. Mục đích của cánh hữu Nhật Bản là có một chính sách ngoại giao-quân sự độc lập hơn với Mỹ.
Nhiều nước láng giềng e ngại rằng một nước Nhật Bản độc lập hơn với Mỹ sẽ tìm cách phát triển vũ khí hạt nhân, trong khi nước này thừa sức làm điều đó: cả về trình độ khoa học công nghệ lẫn tiềm lực sẵn có.
Dưới sự o ép của Trung Quốc, một số nước láng giềng có dấu hiệu bớt lo ngại tiến trình “tái quân sự hóa” ở Nhật Bản. Cách đây không lâu, Ngoại trưởng Philippines, Albert del Rosario, đã công khai ủng hộ việc Nhật Bản tái vũ trang để chống lại tham vọng bá quyền của Trung Quốc.
Yêu sách chủ quyền lãnh thổ tham lam và ngang ngược của Trung Quốc, chính sách “xoaytrục” của Mỹ và sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc ở Nhật Bản… chính là những nguyên nhân khiến cho Biển Đông đang trở thành “mắt bão” ở Tây Thái Bình Dương.
Nhiều nhà quan sát lưu ý rằng tình hình quân sự-chính trị ở Châu Á Thái Bình Dương đang giống như tình hình Châu Âu vào cuối thế kỷ 19, với sự xuất hiện một cấu hình tương tự về cán cân quyền lực chính trị. Đó là một lời nhắc nhở hữu ích vì trạng thái cân bằng bấp bênh đó ở Châu Âu cuối cùng đã dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất hồi đầu Thế kỷ 20.