|
Đội ngũ nghiên cứu lấy mẫu xét nghiệm từ chuột. |
Vượt tiến độ 2 tháng
Một ngày giữa tháng 6, ThS. Mạc Văn Trọng - Công ty TNHH Vắc xin và sinh phẩm số 1 (Vabiotech), Bộ Y tế - nhận được tin từ TS. Đỗ Tuấn Đạt (Chủ tịch Vabiotech), cho hay, dự án nghiên cứu, sản xuất vắc xin phòng Covid-19 của ông và các đồng sự “đã có kết quả. Vắc-xin dự tuyển có tính sinh miễn dịch khá cao.”
Với ThS. Trọng và nhóm nghiên cứu của Công ty Vabiotech, kết quả này có ý nghĩa “sống còn”. Dự án nghiên cứu, sản xuất vắc-xin phòng Covid-19 mà họ đang theo đuổi đang đi đúng hướng và đã cho kết quả bước đầu. “4 tháng quên ăn quên ngủ của chúng tôi đã được đền đáp”, nhà nghiên cứu của Vabiotech chia sẻ.
Trước đó, ngày 15/5 và 29/5, 2 lô mẫu huyết thanh của 50 con chuột đã tiêm dự tuyển vắc-xin Covid-19 lần lượt được gửi sang Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (VSDTTW) để đánh giá. Bằng việc tiêm so sánh với chính chủng virus hoang dại đã được bất hoạt cho chuột, Viện VSDTTW xác định các mẫu huyết thanh này đã cho đáp ứng kháng thể, trong đó có những mẫu đáp ứng khá cao.
“Đây là cơ sở để phát triển thành vắc-xin hoàn chỉnh”, PGS.TS. Nguyễn Lê Khánh Hằng, Phó trưởng Khoa Virus, Viện VSDTTW, nhận định.
Với kết quả này, Vabiotech đã vượt tiến độ 2 tháng của giai đoạn 1 dự án, cũng là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình nghiên cứu sản xuất vắc-xin Covid-19. Ở giai đoạn tiếp theo, vắc-xin dự tuyển sẽ được phát triển thành vắc-xin hoàn chỉnh, ổn định và đủ tiêu chuẩn để sử dụng cho người. Nhóm nghiên cứu cũng sẽ xây dựng quy trình sản xuất thương mại để có thể đáp ứng quy mô sản xuất lên tới hàng triệu, thậm chí là hàng chục triệu liều.
Không sốt ruột trước thông tin nhiều nước đã bắt đầu thử nghiệm vắc-xin Covid-19 trên người nhưng các nhà khoa học của Việt Nam cũng đang thực sự chạy đua với thời gian, nhất là trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nguy cơ của làn sóng Covid-19 thứ 2. Theo các nhà nghiên cứu, Việt Nam không đặt mục tiêu dẫn đầu nhưng sẽ đón đầu nhờ kế thừa được các kinh nghiệm của thế giới ứng phó với loại virus rất mới SARS-CoV-2.
“Để cho ra đời vắc-xin hoàn chỉnh cần 9 – 12 tháng nữa nhưng chúng tôi đang nỗ lực để rút ngắn thời gian này”, ThS. Trọng cho biết. “Dù vậy, so với mức trung bình 10 năm của một vắc-xin bình thường, thời gian 18 - 24 tháng để phát triển được một vắc-xin đã là một thành tựu rất đáng kể”.
Cũng theo đại diện Vabiotech, dự án lần này không chỉ dừng lại ở việc cho ra đời loại vắc-xin mà cả thế giới đang trông đợi, mục tiêu lớn hơn là giúp tăng tính chủ động về vắc-xin cho Việt Nam, nhất là các vắc-xin đại dịch. Nếu trong tương lai xuất hiện thêm chủng coronavirus mới gây đại dịch ở người, với công nghệ sẵn có trong tay, chỉ cần “lắp ráp” phần gen của chủng virus mới vào là rất nhanh sẽ cho ra đời loại vắc-xin mới.
“Khi một nước nào đó có vắc-xin thương mại họ sẽ ưu tiên bảo vệ người dân của họ trước. Như đợt đại dịch cúm A/H1N, mua 1 liều vắc-xin đã khó chưa nói gì đến mua cả triệu liều. Vì thế, tính chủ động vắc-xin của một quốc gia là rất quan trọng”, ThS. Mạc Văn Trọng lý giải.
|
ThS Mạc Văn Trọng |
Hai nghiên cứu về SARS-CoV-2 do VinIF tài trợ khẩn cấp đều có kết quả tốt
Sau chục năm tham gia và đứng chính nhiều công trình lớn nghiên cứu và sản xuất vắc-xin, với ThS. Mạc Văn Trọng, dự án lần này là đặc biệt nhất. Lý do không chỉ bởi bối cảnh “virus thế kỷ” đang nhấn chìm thế giới trong đại dịch mà còn bởi những sóng gió chưa từng có mà nhóm nghiên cứu đã trải qua.
Dự án khởi đầu rất thuận lợi do được tài trợ kinh phí diện “khẩn cấp” của Quỹ VinIF, nhằm ứng phó với một đại dịch toàn cầu. Nhiều công đoạn nghiên cứu của dự án đã được thực hiện tại Phòng thí nghiệm của Đại học Bristol (Anh) ngay từ đầu tháng 2/2020 nhằm đẩy nhanh tiến độ.
Tuy nhiên, dự án đã suýt đổ bể khi châu Âu bị phong tỏa, toàn bộ các hoạt động nghiên cứu phải tạm dừng. Do đã lường trước nguy cơ này nên nhóm nghiên cứu đã làm việc gần như 24/7, mỗi ngày chỉ ngủ vài tiếng, để kịp hoàn thành kế hoạch đặt ra. May mắn là các thành viên vừa rời đi thì nước Anh phong tỏa và về đến Việt Nam ngay sát thời điểm đóng cửa đường hàng không hồi cuối tháng 3.
“Chúng tôi đã chịu áp lực rất lớn. Lo ngại nhất khi đó là không chuyển được mẫu về Việt Nam, bởi nếu thế thì kết quả nghiên cứu gần 2 tháng trời sẽ đổ sông đổ biển”, ThS. Trọng nói về quãng thời gian khó khăn nhất.
Để bù tiến độ cho 14 ngày gián đoạn vì cách ly tập trung sau khi về nước, nhóm nghiên cứu tiếp tục làm việc với cường độ 1 ngày bằng 2 ngày. Phòng thí nghiệm của Vabiotech khi đó đã trở thành “phòng cách ly để nghiên cứu” của những nhà khoa học trở về từ Anh. Nhờ thế mà chỉ 1 tháng sau, dự tuyển vắc-xin đã được hoàn thành để tiêm thử nghiệm trên chuột.
Công nghệ mà Vabiotech sử dụng trong sản xuất vắc-xin phòng chống dịch bệnh mà đến nay đã khiến gần 9 triệu người trên toàn thế giới nhiễm, gần 500.000 người tử vong, là công nghệ vector virus thay vì các công nghệ vắc xin bất hoạt hay sống giảm độc lực như truyền thống. Đây là công nghệ mới, đa năng, cho hiệu suất sản xuất cao, không phụ thuộc vào việc nuôi cấy toàn thể tác nhân gây bệnh, phù hợp đối với các vắc-xin đại dịch.
“Nhờ nguồn kinh phí tài trợ, Công ty đã nâng cấp được hệ thống nuôi cấy tế bào Bioreactor vốn đã được trang bị gần 10 năm trước. Model thế hệ mới này thích ứng hơn với công nghệ vector virus mà chúng tôi đang dùng”, TS. Đỗ Tuấn Đạt, Chủ tịch Vabiotech, tiết lộ.
Cũng theo tác giả của nhiều nghiên cứu phát triển vắc-xin “made in Vietnam”, dự án của Vabiotech có thể tăng tốc còn do được “hưởng lợi” từ những kết quả của đề tài nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học của virus SARS-CoV-2 mà Viện VSDTTW đang triển khai. Đây cũng là một dự án cấp bách do Quỹ VinIF tài trợ ngay khi Covid-19 mới bùng phát. Nhờ các thông tin “giải mã” này mà dù nhiều nước đã “việt vị” trong dự đoán về dịch bệnh nguy hiểm bậc nhất đầu thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn có thể làm chủ tình hình.
“Việt Nam đã xuất sắc khi trở thành một điểm sáng của thế giới về phòng chống và kiểm soát dịch bệnh. Chúng tôi kỳ vọng vào những thắng lợi tiếp theo, trong đó có vắc-xin Covid-19 “made in Vietnam”, TS. Đỗ Tuấn Đạt đặt mục tiêu.