Khẩu pháo lớn nhất trong lịch sử, có biệt danh đầy châm biếm và mỉa mai là “Little David”, được đặt cho khẩu cối 914 mm của Mỹ, được chế tạo vào cuối Thế chiến hai. Little David có cỡ nòng thực sự ấn tượng, vượt qua các tổ hợp pháo đường sắt Dora và Gustav khổng lồ của Đức.Một khẩu súng cối có cỡ nòng đến 914mm, với mục đích là phóng đi những quả bom hàng không, Little David có cỡ nòng vượt xa mẫu súng cối “Karl” hay mẫu pháo đường sắt “Dora” của Đức quốc xã. Đến nay, Little David của Mỹ, vẫn giữ kỷ lục về cỡ nòng lớn nhất, trong số tất cả các mẫu pháo hiện đại.Đến tân bây giờ, nhiều nhà sử học cũng chưa giải thích được tại sao, Mỹ lại bị cuốn vào chế tạo những “siêu vũ khí” như của phe phát xít, như xe tăng Mause, pháo Dora của Đức hay thiết giáp hạm Yamato của Nhật Bản.Lý do đầu tiên để người Mỹ phát triển súng cối Little David, là nhằm mục đích thử nghiệm bom hàng không. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Mỹ thường sử dụng hệ thống pháo cỡ lớn, đã loại khỏi biên chế, để thử nghiệm vũ khí cho máy bay.Với sự trợ giúp của liều phóng tương đối nhỏ, có thể phóng một quả bom lên trên không, ở khoảng cách vài trăm mét so với mặt đất. Thực hành thử nghiệm này, rẻ hơn nhiều so với ném bom từ máy bay. Ngoài ra, các cuộc thử nghiệm bằng súng cối Little David không phụ thuộc vào bất kỳ điều kiện thời tiết nào.Thông thường, các loại pháo 234 mm và 305 mm cũ, được dùng để thử nghiệm. Tuy nhiên, việc tăng kích thước của bom, đòi hỏi phải tăng cỡ nòng của pháo. Do đó, Mỹ quyết định thiết kế một vũ khí được định danh là Thiết bị thử bom T1 và sau này được biết đến với cái tên Little David.Khẩu Little David được thiết kế bởi các kỹ sư tại Mesta Machinery, một trong những công ty công nghiệp hàng đầu ở Pittsburgh, bang Pennsylvania. Đạn thử nghiệm cho khẩu cối Little David được tạo ra theo đơn đặt hàng của chính phủ, bởi các kỹ sư tại phòng thí nghiệm quân sự Babcock & Wilcox ở Akron, bang Ohio.Nhìn bề ngoài, Little David như khẩu súng cối bắn đạn ghém, bàn đế pháo là một hộp thép lớn nặng 46,5 tấn. Trọng lượng nòng pháo nặng xấp xỉ 40,64 tấn. Trọng lượng Little David không hề nhỏ; nhưng so với các hệ thống pháo khổng lồ của Đức, thì nó vẫn có thể vận chuyển dễ dàng hơn.Để thay đổi góc bắn, nòng cối được di chuyển bằng một cơ cấu 6 chiếc kích thủy lực đặc biệt; góc tầm có thể di chuyển trong xạ giới từ +45 đến + 65 độ, xạ giới hướng là sang phải/trái 13 độ. Việc nạp đạn được tiến hành từ đầu nòng pháo, khi nạp đạn, cơ cấu thủy lực hạ nòng pháo ở phương nằm ngang.Để giữ được khẩu cối khổng lồ này không bị giật tung lên khi bắn, Little David khi bắn, bàn đế được chôn xuống đất. Kích thước của bàn đế được chôn xuống đất (dài x rộng x cao) là 5.500x3.360x3.000 mm. Việc khai hỏa của Little David được kích hoạt bằng điện.Ưu điểm của toàn bộ thiết kế, là tính cơ động tương đối, Little David di chuyển bằng xe chở xe tăng hạng nặng bánh lốp cải tiến M26. Phương án vận chuyển này, khiến súng cối Little David của Mỹ cơ động hơn nhiều, so với hầu hết các hệ thống pháo đường sắt, có cỡ nòng tương đương của Đức.Ngoài những chiếc xe vận chuyển tăng này, để phục vụ được Little David hoạt động, cần phải có một chiếc cần cẩu, một chiếc máy ủi và một chiếc máy xúc gầu; tất cả chúng đều được sử dụng để đặt Little David vào vị trí bắn. Quá trình chuẩn bị cho Little David bắn mất khoảng 12 giờ.Việc thử nghiệm Little David khá thành công, do đó quân đội Mỹ nảy ra ý tưởng sử dụng Little David vào mục đích quân sự. Công việc theo hướng này, bắt đầu vào tháng 3/1944. Việc bắn thử bắt đầu tại Trường bắn thử nghiệm Aberdeen, bằng cách sử dụng loại đạn nổ phá, được chế tạo đặc biệt cho súng cối.Lý do người Mỹ muốn đưa Little David vào chiến đấu, là do Quân đội Mỹ lo ngại, họ sẽ vấp phải sự kháng cự nghiêm trọng của quân Nhật với hệ thống công sự kiên cố. Chiến đấu với lực lượng, ẩn nấp trong công sự kiên cố, nhất là hệ thống hầm ngầm, nếu dùng hỏa lực súng cối siêu nặng 914mm, chắc chắn sẽ dễ dàng hơn.Để phục vụ cho mục đích này, một loại đạn nổ phá, nặng 1.678 kg đã được phát triển, trong đó chỉ riêng lượng thuốc nổ đã là 703 kg. Các cuộc thử nghiệm súng cối với loại đạn này đã được thực hiện tại Trường bắn Aberdeen Proving Ground.Tuy nhiên “siêu cối” Little David nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu cố hữu ở những khẩu súng cối khổng lồ từ ngày trước. Little David có tầm bắn không như kỳ vọng, nhưng điều đáng buồn hơn, là độ chính xác không cao.Việc bắn thử nghiệm cho thấy, tầm bắn tối đa của đạn là 8.690 mét. Thời gian 12 giờ để lắp đặt súng cối vào vị trí chiến đấu là quá dài. Mặc dù, so với thời gian triển khai pháo Dora của Đức thì không thấm vào đâu. Bản thân Little David cũng cơ động hơn nhiều, khi chỉ cần hai xe chở tăng bánh lốp M26 có thể được sử dụng để vận chuyển nó.Tất cả các kế hoạch sử dụng súng cối Little David trong chiến đấu cuối cùng đã bị chôn vùi vào cuối Thế chiến thứ hai. Việc Quân đội Mỹ đổ bộ lên các đảo của Nhật Bản là không cần thiết. Quân đội Mỹ cũng phát triển những vũ khí khủng khiếp và có sức hủy diệt lớn hơn là đạn cối 914 ly, khi kỷ nguyên vũ khí hạt nhân đang hình thành.Sau Thế chiến hai, dự án bị dừng lại, đến năm 1946 thì đóng cửa hoàn toàn. Vũ khí kỳ diệu của Mỹ không bao giờ rời khỏi biên giới của Trường bắn thử nghiệm Aberdeen. Ngày nay khẩu “siêu cối” Little David, là một trong những vật trưng bày độc đáo của bảo tàng ngoài trời địa phương. Nguồn ảnh: Warhistory. Cận cảnh khẩu siêu pháo của Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai - khẩu pháo lớn nhất lịch sử từng được sử dụng trên đất liền. Nguồn: Smithsonia.
Khẩu pháo lớn nhất trong lịch sử, có biệt danh đầy châm biếm và mỉa mai là “Little David”, được đặt cho khẩu cối 914 mm của Mỹ, được chế tạo vào cuối Thế chiến hai. Little David có cỡ nòng thực sự ấn tượng, vượt qua các tổ hợp pháo đường sắt Dora và Gustav khổng lồ của Đức.
Một khẩu súng cối có cỡ nòng đến 914mm, với mục đích là phóng đi những quả bom hàng không, Little David có cỡ nòng vượt xa mẫu súng cối “Karl” hay mẫu pháo đường sắt “Dora” của Đức quốc xã. Đến nay, Little David của Mỹ, vẫn giữ kỷ lục về cỡ nòng lớn nhất, trong số tất cả các mẫu pháo hiện đại.
Đến tân bây giờ, nhiều nhà sử học cũng chưa giải thích được tại sao, Mỹ lại bị cuốn vào chế tạo những “siêu vũ khí” như của phe phát xít, như xe tăng Mause, pháo Dora của Đức hay thiết giáp hạm Yamato của Nhật Bản.
Lý do đầu tiên để người Mỹ phát triển súng cối Little David, là nhằm mục đích thử nghiệm bom hàng không. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Mỹ thường sử dụng hệ thống pháo cỡ lớn, đã loại khỏi biên chế, để thử nghiệm vũ khí cho máy bay.
Với sự trợ giúp của liều phóng tương đối nhỏ, có thể phóng một quả bom lên trên không, ở khoảng cách vài trăm mét so với mặt đất. Thực hành thử nghiệm này, rẻ hơn nhiều so với ném bom từ máy bay. Ngoài ra, các cuộc thử nghiệm bằng súng cối Little David không phụ thuộc vào bất kỳ điều kiện thời tiết nào.
Thông thường, các loại pháo 234 mm và 305 mm cũ, được dùng để thử nghiệm. Tuy nhiên, việc tăng kích thước của bom, đòi hỏi phải tăng cỡ nòng của pháo. Do đó, Mỹ quyết định thiết kế một vũ khí được định danh là Thiết bị thử bom T1 và sau này được biết đến với cái tên Little David.
Khẩu Little David được thiết kế bởi các kỹ sư tại Mesta Machinery, một trong những công ty công nghiệp hàng đầu ở Pittsburgh, bang Pennsylvania. Đạn thử nghiệm cho khẩu cối Little David được tạo ra theo đơn đặt hàng của chính phủ, bởi các kỹ sư tại phòng thí nghiệm quân sự Babcock & Wilcox ở Akron, bang Ohio.
Nhìn bề ngoài, Little David như khẩu súng cối bắn đạn ghém, bàn đế pháo là một hộp thép lớn nặng 46,5 tấn. Trọng lượng nòng pháo nặng xấp xỉ 40,64 tấn. Trọng lượng Little David không hề nhỏ; nhưng so với các hệ thống pháo khổng lồ của Đức, thì nó vẫn có thể vận chuyển dễ dàng hơn.
Để thay đổi góc bắn, nòng cối được di chuyển bằng một cơ cấu 6 chiếc kích thủy lực đặc biệt; góc tầm có thể di chuyển trong xạ giới từ +45 đến + 65 độ, xạ giới hướng là sang phải/trái 13 độ. Việc nạp đạn được tiến hành từ đầu nòng pháo, khi nạp đạn, cơ cấu thủy lực hạ nòng pháo ở phương nằm ngang.
Để giữ được khẩu cối khổng lồ này không bị giật tung lên khi bắn, Little David khi bắn, bàn đế được chôn xuống đất. Kích thước của bàn đế được chôn xuống đất (dài x rộng x cao) là 5.500x3.360x3.000 mm. Việc khai hỏa của Little David được kích hoạt bằng điện.
Ưu điểm của toàn bộ thiết kế, là tính cơ động tương đối, Little David di chuyển bằng xe chở xe tăng hạng nặng bánh lốp cải tiến M26. Phương án vận chuyển này, khiến súng cối Little David của Mỹ cơ động hơn nhiều, so với hầu hết các hệ thống pháo đường sắt, có cỡ nòng tương đương của Đức.
Ngoài những chiếc xe vận chuyển tăng này, để phục vụ được Little David hoạt động, cần phải có một chiếc cần cẩu, một chiếc máy ủi và một chiếc máy xúc gầu; tất cả chúng đều được sử dụng để đặt Little David vào vị trí bắn. Quá trình chuẩn bị cho Little David bắn mất khoảng 12 giờ.
Việc thử nghiệm Little David khá thành công, do đó quân đội Mỹ nảy ra ý tưởng sử dụng Little David vào mục đích quân sự. Công việc theo hướng này, bắt đầu vào tháng 3/1944. Việc bắn thử bắt đầu tại Trường bắn thử nghiệm Aberdeen, bằng cách sử dụng loại đạn nổ phá, được chế tạo đặc biệt cho súng cối.
Lý do người Mỹ muốn đưa Little David vào chiến đấu, là do Quân đội Mỹ lo ngại, họ sẽ vấp phải sự kháng cự nghiêm trọng của quân Nhật với hệ thống công sự kiên cố. Chiến đấu với lực lượng, ẩn nấp trong công sự kiên cố, nhất là hệ thống hầm ngầm, nếu dùng hỏa lực súng cối siêu nặng 914mm, chắc chắn sẽ dễ dàng hơn.
Để phục vụ cho mục đích này, một loại đạn nổ phá, nặng 1.678 kg đã được phát triển, trong đó chỉ riêng lượng thuốc nổ đã là 703 kg. Các cuộc thử nghiệm súng cối với loại đạn này đã được thực hiện tại Trường bắn Aberdeen Proving Ground.
Tuy nhiên “siêu cối” Little David nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu cố hữu ở những khẩu súng cối khổng lồ từ ngày trước. Little David có tầm bắn không như kỳ vọng, nhưng điều đáng buồn hơn, là độ chính xác không cao.
Việc bắn thử nghiệm cho thấy, tầm bắn tối đa của đạn là 8.690 mét. Thời gian 12 giờ để lắp đặt súng cối vào vị trí chiến đấu là quá dài. Mặc dù, so với thời gian triển khai pháo Dora của Đức thì không thấm vào đâu. Bản thân Little David cũng cơ động hơn nhiều, khi chỉ cần hai xe chở tăng bánh lốp M26 có thể được sử dụng để vận chuyển nó.
Tất cả các kế hoạch sử dụng súng cối Little David trong chiến đấu cuối cùng đã bị chôn vùi vào cuối Thế chiến thứ hai. Việc Quân đội Mỹ đổ bộ lên các đảo của Nhật Bản là không cần thiết. Quân đội Mỹ cũng phát triển những vũ khí khủng khiếp và có sức hủy diệt lớn hơn là đạn cối 914 ly, khi kỷ nguyên vũ khí hạt nhân đang hình thành.
Sau Thế chiến hai, dự án bị dừng lại, đến năm 1946 thì đóng cửa hoàn toàn. Vũ khí kỳ diệu của Mỹ không bao giờ rời khỏi biên giới của Trường bắn thử nghiệm Aberdeen. Ngày nay khẩu “siêu cối” Little David, là một trong những vật trưng bày độc đáo của bảo tàng ngoài trời địa phương. Nguồn ảnh: Warhistory.
Cận cảnh khẩu siêu pháo của Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai - khẩu pháo lớn nhất lịch sử từng được sử dụng trên đất liền. Nguồn: Smithsonia.