Cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam là thất bại nặng nề nhất của quân đội Mỹ từng phải gánh chịu. Cuộc chiến này trải qua 5 đời Tổng thống Mỹ, kéo dài 222 tháng, với 4 lần thay đổi chiến lược chiến tranh, song vẫn không cứu vãn được thất bại.Đầu tiên là Tổng thống Mỹ David Dwight Eisenhower (1953-1961), Dwight D. Eisenhower là một vị Thống tướng Lục quân Mỹ và là Tổng thống Mỹ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961.Với chiến lược “Eisenhower” (Chiến tranh đơn phương), đã dựng lên chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm để chống lại miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Liên tiếp mở hàng loạt chiến dịch tàn sát những người kháng chiến và yêu nước ở miền Nam Việt Nam.Đến Tổng thống John Fitzgerald Kennedy, với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), xây dựng quân đội ngụy Sài Gòn trang bị vũ khí tối tân, cùng với cố vấn Mỹ tiến hành “Bình định”, lập “ấp chiến lược” nhằm cô lập các lực lượng vũ trang và chính trị của cách mạng miền Nam, tham vọng bình định Việt Nam trong 18 tháng.Tổng thống Lyndon Baines John-son, với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968), trực tiếp đưa quân chiến đấu từ Mỹ sang, thực hiện chiến lược “tìm và diệt”.Tiếp đó là chiến lược hai gọng kìm “tiêu diệt chủ lực đối phương và bình định miền Nam”; đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn, với chiến dịch “Sấm rền” cùng kế hoạch chiến lược được chia làm 3 giai đoạn hòng giành thắng lợi trong vòng 25 đến 30 tháng.Tổng thống Richard Milhous Nixon, với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1974), với mục tiêu: Rút quân nhưng để lại cố vấn chỉ huy, cung cấp vũ khí, trang bị, lương thực, tiền của cho ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn; mở chiến dịch các chiến dịch hành quân quy mô nhằm ngăn chặn chi viện của hậu phương miền Bắc trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn.Tiến hành đánh phá miền Bắc trên quy mô lớn bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác, rải mìn phong tỏa các cảng, cửa sông Việt Nam.Tổng thống tiếp theo Gerald Rudolph Ford vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, yêu cầu Quốc hội thông qua khoản viện trợ quân sự cho chính quyền ngụy để thực hiện lấn chiếm, “bình định” chống phá Hiệp định Paris và dùng lực lượng tấn công lớn trên chiến trường miền Nam.Gerald Rudolph Ford là Tổng thống thứ 38 của Mỹ (1974–1977) và là Phó tổng thống thứ 40 (1973–1974). Khi làm Tổng thống, Ford đã ký Hiệp ước Helsinki làm cho Chiến tranh Lạnh bớt căng thẳng hơn. So với các bậc tiền nhiệm, các chính sách của Ford có xu hướng ít can thiệp trực tiếp vào Chiến tranh Việt Nam hơn.Tổng thống Ford là vị Tổng thống cuối cùng chịu sự thất bại trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”; buộc phải chấp nhận thất bại trước những đòn tiến công của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ đã phải 8 lần thay Đại sứ toàn quyền, 4 lần thay Tổng tư lệnh quân viễn chinh, huy động 6,6 triệu lượt lính tham chiến ở Việt Nam.Quân Mỹ lúc cao nhất là 549.500 tên và 72.600 quân chư hầu, bao gồm: 70% lục quân, 60% không quân (45% máy bay B-52 và các loại máy bay hiện đại nhất), 40% hải quân (trong đó có 15/18 tàu sân bay) và 22.000 xí nghiệp để phục vụ chiến tranh.Trong 21 năm theo đuổi chiến tranh ở Việt Nam, các Tổng thống Mỹ đã để lại một bức tranh đen tối trong lịch sử nước Mỹ, nhất là thời gian cầm quyền của Tổng thống L. Johnson (1965-1968) và R. Nixon (1969-1974).Nhiều nhà quan sát nhận xét, tuyên bố kết thúc chiến tranh Việt Nam của Tổng thống Ford cho thấy, Washington không còn muốn dính líu đến một cuộc chiến đã kéo quá dài, gây quá nhiều tốn kém và tạo sự chia rẽ ngay trong chính nội bộ nước Mỹ.Một số ý kiến khác lại cho rằng, đó có thể là lời thú nhận thất bại cay đắng của lãnh đạo Nhà Trắng đối với sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nguồn ảnh: Warhistory. Tàu chiến Mỹ dội hải pháo quy mô lớn, tấn công hủy diệt miền Nam Việt Nam. Nguồn: USnavy.
Cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam là thất bại nặng nề nhất của quân đội Mỹ từng phải gánh chịu. Cuộc chiến này trải qua 5 đời Tổng thống Mỹ, kéo dài 222 tháng, với 4 lần thay đổi chiến lược chiến tranh, song vẫn không cứu vãn được thất bại.
Đầu tiên là Tổng thống Mỹ David Dwight Eisenhower (1953-1961), Dwight D. Eisenhower là một vị Thống tướng Lục quân Mỹ và là Tổng thống Mỹ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961.
Với chiến lược “Eisenhower” (Chiến tranh đơn phương), đã dựng lên chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm để chống lại miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Liên tiếp mở hàng loạt chiến dịch tàn sát những người kháng chiến và yêu nước ở miền Nam Việt Nam.
Đến Tổng thống John Fitzgerald Kennedy, với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), xây dựng quân đội ngụy Sài Gòn trang bị vũ khí tối tân, cùng với cố vấn Mỹ tiến hành “Bình định”, lập “ấp chiến lược” nhằm cô lập các lực lượng vũ trang và chính trị của cách mạng miền Nam, tham vọng bình định Việt Nam trong 18 tháng.
Tổng thống Lyndon Baines John-son, với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968), trực tiếp đưa quân chiến đấu từ Mỹ sang, thực hiện chiến lược “tìm và diệt”.
Tiếp đó là chiến lược hai gọng kìm “tiêu diệt chủ lực đối phương và bình định miền Nam”; đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn, với chiến dịch “Sấm rền” cùng kế hoạch chiến lược được chia làm 3 giai đoạn hòng giành thắng lợi trong vòng 25 đến 30 tháng.
Tổng thống Richard Milhous Nixon, với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1974), với mục tiêu: Rút quân nhưng để lại cố vấn chỉ huy, cung cấp vũ khí, trang bị, lương thực, tiền của cho ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn; mở chiến dịch các chiến dịch hành quân quy mô nhằm ngăn chặn chi viện của hậu phương miền Bắc trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn.
Tiến hành đánh phá miền Bắc trên quy mô lớn bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác, rải mìn phong tỏa các cảng, cửa sông Việt Nam.
Tổng thống tiếp theo Gerald Rudolph Ford vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, yêu cầu Quốc hội thông qua khoản viện trợ quân sự cho chính quyền ngụy để thực hiện lấn chiếm, “bình định” chống phá Hiệp định Paris và dùng lực lượng tấn công lớn trên chiến trường miền Nam.
Gerald Rudolph Ford là Tổng thống thứ 38 của Mỹ (1974–1977) và là Phó tổng thống thứ 40 (1973–1974). Khi làm Tổng thống, Ford đã ký Hiệp ước Helsinki làm cho Chiến tranh Lạnh bớt căng thẳng hơn. So với các bậc tiền nhiệm, các chính sách của Ford có xu hướng ít can thiệp trực tiếp vào Chiến tranh Việt Nam hơn.
Tổng thống Ford là vị Tổng thống cuối cùng chịu sự thất bại trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”; buộc phải chấp nhận thất bại trước những đòn tiến công của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ đã phải 8 lần thay Đại sứ toàn quyền, 4 lần thay Tổng tư lệnh quân viễn chinh, huy động 6,6 triệu lượt lính tham chiến ở Việt Nam.
Quân Mỹ lúc cao nhất là 549.500 tên và 72.600 quân chư hầu, bao gồm: 70% lục quân, 60% không quân (45% máy bay B-52 và các loại máy bay hiện đại nhất), 40% hải quân (trong đó có 15/18 tàu sân bay) và 22.000 xí nghiệp để phục vụ chiến tranh.
Trong 21 năm theo đuổi chiến tranh ở Việt Nam, các Tổng thống Mỹ đã để lại một bức tranh đen tối trong lịch sử nước Mỹ, nhất là thời gian cầm quyền của Tổng thống L. Johnson (1965-1968) và R. Nixon (1969-1974).
Nhiều nhà quan sát nhận xét, tuyên bố kết thúc chiến tranh Việt Nam của Tổng thống Ford cho thấy, Washington không còn muốn dính líu đến một cuộc chiến đã kéo quá dài, gây quá nhiều tốn kém và tạo sự chia rẽ ngay trong chính nội bộ nước Mỹ.
Một số ý kiến khác lại cho rằng, đó có thể là lời thú nhận thất bại cay đắng của lãnh đạo Nhà Trắng đối với sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nguồn ảnh: Warhistory.
Tàu chiến Mỹ dội hải pháo quy mô lớn, tấn công hủy diệt miền Nam Việt Nam. Nguồn: USnavy.