Suy hô hấp, thở máy... chỉ từ vết gai đâm, xước nhỏ
Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới Trung Ương điều trị cho gần 10 trường hợp bệnh nhân mắc bệnh uốn ván nặng. Đặc điểm chung của những bệnh nhân này là chưa tiêm phòng và đều bị các vết thương hở nhưng tự xử lý tại nhà không triệt để, dẫn đến nhiễm vi khuẩn uốn ván. Khi có biểu hiện cứng hàm, bệnh nhân mới nhập viện điều trị.
Trường hợp 1: Bệnh nhân nam, 66 tuổi, ở Hải Dương, nhập viện ngày 27/7/2024. Một tháng trước, bệnh nhân bị gai đâm vào chân và tự xử lý tại nhà. Bệnh nhân không tiêm phòng uốn ván. Khi có biểu hiện cứng hàm, khó nuốt, bệnh nhân mới nhập viện điều trị . Sau đó tiến triển co cứng cơ toàn thân, suy hô hấp, phải đặt ống và thở máy.
Trường hợp 2: Bệnh nhân nam, 64 tuổi, ở Thái Bình, có bệnh nền tăng huyết áp và suy tim. Khoảng 7 ngày trước khi vào viện, bệnh nhân bị vết thương ở cẳng tay phải do sinh hoạt. Sau 3 ngày, bệnh nhân bắt đầu cứng hàm, khó nuốt và tiến triển nặng. Khi nhập viện, bệnh nhân trong tình trạng co cứng toàn thân, cũng phải đặt ống thở máy và bị tụt huyết áp.
Tương tự, bệnh nhân T., nam, 44 tuổi, ở Thanh Hóa, bị đinh đâm vào chân 2 tuần trước khi vào viện. Trước khi nhập viện 3 ngày, bệnh nhân biểu hiện cứng hàm, khó há miệng, khó ăn uống và co cứng cơ toàn thân, phải nhập viện điều trị và ăn qua ống thông.
Đặc biệt, bệnh nhân H., 65 tuổi, ở Bắc Ninh, nhập viện ngày 27/6/2024. Bệnh nhân có tiền sử đái tháo đường và tăng huyết áp. Khoảng 8 ngày trước khi nhập viện, bệnh nhân bị mảnh gỗ đâm vào ngón tay phải và tự xử lý bằng nước và băng keo cá nhân, dẫn đến vết thương mưng mủ.
Mắc uốn ván từ vết gai đâm - Ảnh BVCC
Bệnh nhân đi khám tại cơ sở y tế trong tình trạng khó há miệng, cứng hàm sau đó được giới thiệu lên Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới trung ương vì nghi mắc uốn ván. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng uốn ván toàn thể rõ rệt với biểu hiện cụ thể: cứng hàm, miệng há 1 cm, tăng trương lực cơ toàn thân mức độ nặng (co cứng cơ toàn thân), có khởi phát cơn co giật và chẹn ngực gây khó thở ( dấu hiệu của tổn thương cơ hô hấp).
Lập tức bệnh nhân được khoa Cấp cứu đặt ống nội khí quản cấp cứu, sử dụng nhiều loại thuốc an thần giảm đau, giãn cơ để kiểm soát cơn co giật.
Trực tiếp điều trị cho bệnh nhân H., BS Nguyễn Đức Minh, Khoa Cấp Cứu - Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương chia sẻ: "Trong giai đoạn đầu của bệnh ( giai đoạn cấp tính), tình trạng co giật, rối loạn trương lực cơ và rối loạn thần kinh thực vật rất nặng. Bệnh nhân co giật liên tục dẫn đến tình trạng tiêu cơ vân cấp, gây tắc ống thận và suy thận.
Bệnh nhân đã phải lọc máu do suy thận, kết hợp với kiểm soát an thần, kiểm soát tình trạng co giật bằng nhiều loại thuốc an thần, giãn cơ, giảm đau khác nhau và sử dụng kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn."
Sau một tháng điều trị tích cực, bệnh nhân đã dần ổn định, dừng hoàn toàn các loại thuốc an thần, giãn cơ, chấm dứt tình trạng co cứng và co giật cơ. Chức năng thận của bệnh nhân cũng đã trở về bình thường, bệnh nhân đã có thể tự thở, kiểm soát được các vấn đề nhiễm trùng và rối loạn chức năng kèm theo.
Bệnh nhân suy hô hấp do uốn ván - Ảnh BVCC
Co giật cứng rất nhanh tử vong
Uốn ván là bệnh lý cấp tính nặng, vi khuẩn uốn ván tồn tại dưới hai dạng: dạng nha bào tồn tại ngoài môi trường và dạng hoạt động tồn tại trong cơ thể thông qua vết thương. Uốn ván là bệnh nguy hiểm do thời gian điều trị kéo dài (có thể vài tuần đến vài tháng), chi phí điều trị tốn kém và tỉ lệ tử vong cao.
Bác sĩ Minh diễn giải: Người mắc bệnh uốn ván thường có biểu hiện ban đầu là cứng hàm và khó há miệng, sau đó lan xuống các cơ khiến bệnh nhân không thể đi lại được. Trong trường hợp nặng, bệnh có thể dẫn đến co giật cứng, nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến suy hô hấp và nhanh chóng tử vong do ngực bị chẹn cứng, gãy xương, đứt cơ. Thời gian ủ bệnh uốn ván có thể kéo dài từ vài ngày đến vài tháng.
Vì vậy người dân cần chú ý đến việc tiêm phòng uốn ván, đặc biệt khi bị các vết thương hở. Việc tự xử lý vết thương tại nhà có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng và nguy hiểm đến tính mạng. Trong trường hợp nghi ngờ mắc uốn ván, cần đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời.
Đối với người mắc uốn ván sau khi ra viện, Bác sĩ Minh nhấn mạnh: “người bệnh cần tiêm nhắc lại vắc xin sau 1 tháng ra viện và nhắc lại sau mỗi năm hoặc 10 năm, hoặc ngay sau khi có vết thương hở nhiễm bẩn mới.
Quá trình điều trị uốn ván có 3 giai đoạn: giai đoạn cấp tính, giai đoạn phục hồi và dự phòng sau phục hồi để tránh bệnh tái phát. Mức độ nặng nhẹ khi tái phát sẽ phụ thuộc vào cơ địa của bệnh nhân và tính chất nhiễm bẩn của vết thương.
Hầu như các bệnh nhân uốn ván đều gặp phải tình trạng yếu cơ do nằm lâu, dinh dưỡng kém, rối loạn hấp thu trong bệnh lý uốn ván và tình trạng teo co cứng các cơ. Những trường hợp này thời gian phục hồi cũng khá lâu. Chính vì vậy cần bổ sung dinh dưỡng tích cực bằng đường ăn, đường truyền và tập phục hồi. ..”
Người có nguy cơ cao nên tiêm phòng uốn ván
Tiêm huyết thanh phòng uốn ván là biện pháp đơn giản và hiệu quả, giúp ngăn ngừa bệnh uốn ván khi có vết thương ngoài da. Tuy nhiên, rất tiếc là có nhiều trường hợp giống như ở trên, thường chủ quan không đến cơ sở y tế kiểm tra và tiêm phòng dẫn tới bệnh phát triển gây biến chứng nguy hiểm.
Các bác sĩ khuyến cáo: Những người có nguy cơ cao như những người nông dân, người làm công việc dọn vệ sinh, công nhân xây dựng… làm việc trong môi trường tiếp xúc trực tiếp với đất cát, bụi bẩn, phụ nữ trong thời kỳ mang thai hoặc sinh nở, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thì nên được tiêm phòng uốn ván đủ liều.
Khi bị vết thương ngoài da, đặc biệt là những vết thương bị nhiễm bẩn, dính đất cát, bụi bẩn thì cần đến cơ sở y tế để được xử lý đúng cách và được tiêm phòng uốn ván càng sớm càng tốt.
Cách tiêm phòng uốn ván
Trẻ em dưới 7 tuổi thường được tiêm vắc xin phối hợp bạch hầu – ho gà – uốn ván (DPT). Trẻ trên 7 tuổi có chống chỉ định tiêm vắc xin ho gà nên chỉ tiêm vắc xin phối hợp bạch hầu – uốn ván (DT) và tiêm phòng cho người lớn kể cả phụ nữ có thai.
Trẻ dưới 1 tuổi tiêm 3 liều vắc xin DPT vào lúc 2, 3, 4 tháng tuổi.
Với phụ nữ có thai: Tiêm phòng 2 liều cách nhau tối thiểu 1 tháng. Liều thứ 2 phải tiêm trước khi sinh 1 tháng. Những lần có thai sau cần tiêm nhắc lại 1 liều trước khi sinh 1 tháng.
Với người lớn nói chung: Tiêm phòng tối thiểu 3 liều với khoảng cách liều 2 cách liều 1 tối thiểu 1 tháng, liều 3 cách liều 2 tối thiểu 6 tháng.
Để duy trì khả năng miễn dịch bảo vệ trước bệnh uốn ván, cần tiêm nhắc lại 10 năm 1 lần.
Nguồn Cục Y tế dự phòng – Bộ Y tế