Cục máu đông (huyết khối) là do mảng xơ vữa động mạch bị vỡ ra. Tại chỗ vỡ mảng xơ vữa động mạch, máu tiếp xúc với lõi chất béo bên trong mảng. Khi đó, các tế bào tiểu cầu và hệ thống đông máu bị hoạt hóa, dẫn đến hình thành cục máu đông gây tắc động mạch.
Biện pháp chống cục máu đông
Điều trị chống kết tập tiểu cầu để ngăn chặn sự tạo thành mảng vữa xơ động mạch mới và các biến chứng huyết khối (cục máu đông) do xơ vữa động mạch. Các biện pháp cụ thể bao gồm:
Chống tăng huyết áp: Để làm giảm các biến chứng về tim mạch, thận và tỷ lệ tử vong. Tích cực sử dụng các biện pháp phòng chống thừa cân và béo phì, ăn nhạt, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Sử dụng thuốc hạ huyết áp đều đặn và đúng cách theo hướng dẫn của thầy thuốc.
Cai thuốc lá triệt để: Vì hút thuốc làm nguy cơ gây vữa xơ động mạch và bệnh mạch vành tăng gấp đôi, nhất là ở những người hút trên 40 điếu mỗi ngày. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nguy cơ đột quỵ não sẽ dứt hẳn sau một vài năm ngừng hút thuốc lá.
Điều chỉnh rối loạn lipid máu trong đó đặc biệt làm giảm cholesterol: Cơ chế sinh bệnh vữa xơ động mạch chưa được hiểu biết hoàn toàn, nhưng tổn thương và hậu quả rối loạn chức năng của các tế bào nội mạc mạch máu là rất sớm. Có nhiều nghiên cứu lớn đã chỉ ra rằng tăng cholesterol là một yết tố nguy cơ độc lập của đột quỵ não.
Liệu pháp chống hình thành cục máu đông, ngừa đột quỵ - Ảnh minh họa
Thực hiện chế độ ăn muối và kali hợp lý: Ăn mặn làm tăng huyết áp. Đối với các nước nhiệt đới, chỉ nên giảm muối vừa phải do mất muối qua mồ hôi. Chế độ ăn ít kali làm tăng nguy cơ đột quỵ do tăng huyết áp. Nên bổ sung kali bằng ăn thêm hoa quả và rau tươi.
Mức độ ăn kiêng được khuyến cáo chung là không quá 2,4g natri mỗi ngày (tương đương 6g muối ăn). Những bệnh nhân tăng huyết áp nếu giảm bớt lượng muối ăn khoảng 40mg/ngày thì sẽ giảm được nguy cơ tăng huyết áp hoặc biến chứng tim mạch.
Cai rượu: Một số người nghiện rượu thường gặp phải những biến chứng nặng do lạm dụng rượu. Nghiện rượu nặng (sử dụng nhiều hơn 60g/ngày) tăng nguy cơ đột quỵ. Sử dụng mức độ trung bình (12-24g/ngày) giảm nguy cơ đột quỵ. Sử dụng rượu ít hơn 12g/ngày thì nguy cơ thấp nhất.
Tập thể dục để làm giảm thấp các yết tố nguy cơ của bệnh tim mạch: Những người đàn ông thường xuyên hoạt động đủ mạnh để ướt đẫm mồ hôi là đã giảm 20% nguy cơ đột quỵ. Tập thể dục mức độ trung bình, chẳng hạn như đi bộ nhanh, đạp xe đạp hoặc bơi lội ít nhất 30 phút/lần/ngày, 5 ngày/tuần là hữu ích.
Tập thể dục đều đặn có thể góp phần cải thiện đường máu, giảm tỷ lệ kháng insulin, giảm cân, cải thiện một số thông số lipid, hạn chế tiến triển tổn thương xữa xơ động mạch và cải thiện huyết áp. Tập thể dục có tác dụng làm giảm HA tâm thu, giảm béo phì. Thể dục làm giảm tỷ lệ nhồi máu cơ tim do đó cũng làn giảm tỷ lệ đột quỵ não.
Chống béo phì: Nhất là béo bụng vì đó là nguy cơ lớn nhất của đột quỵ. Về yếu tố nguy cơ của đột quỵ, nghiên cứu sức khỏe dinh dưỡng đã xác định rằng gia tăng chỉ số khối cơ thể = [trọng lượng (kg)] chia cho [chiều cao (m)]2, nếu lớn hơn 27kg/m2 và tăng cân nặng sau 18 tuổi làm tăng yếu tố nguy cơ của nhồi máu não.
Chống bệnh đái tháo đường: Để làm giảm nguy cơ cục máu đông gây đột quỵ não. Nghiên cứu ở Framingham (chẩn đoán suy tim là tiêu chuẩn hữu ích trong thực hành lâm sàng) đã xác định rằng nguy cơ đột quỵ cao hơn trong những bệnh nhân đái tháo đường so với những bệnh nhân không đái tháo đường.
Khi một bệnh nhân đái tháo đường bị đột quỵ thì hậu quả hiểm nghèo hơn nhiều so với bệnh nhân không bị đái tháo đường. Lý do của hậu quả này là do bệnh nhân bị đái tháo có vòng tuần hoàn nghèo nàn.
Phát hiện và điều trị sớm các bệnh lý về tim: Như Rối loạn nhịp (đặc biệt là rung nhĩ), tổn thương van tim, các tổn thương cơ tim đặc biệt là nhồi máu mới, nhồi mấu cũ và bệnh lý cơ tim.
Thuốc dự phòng huyết khối gây đột quỵ
Sử dụng các thuốc dự phòng theo hướng dẫn của thầy thuốc, bao gồm :
Các thuốc tây y: Các thuốc chống đông và thuốc chống kết tập tiểu cầu do ức chế sự tổng hợp thromboxan A2 của tiểu cầu (chất làm dính các tiểu cầu với nhau và với thành mạch) đồng thời giúp ổn định màng tế bào làm ADP không giải phóng ra được khỏi màng tế bào để tham gia vào quá trình kết dính tiểu cầu nên đã được dùng phổ biến trong thời kỳ cấp để ngăn chặn huyết khối tiến triển và tái phát.
Chúng có lợi ích dự phòng lâu dài cho nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm rung nhĩ, tình trạng tăng đông. Tuy vậy, các thuốc này không làm tiêu có ý nghĩa cục máu đông và không thể tái lập nhanh tưới máu não trong giai đoạn cấp. Các thuốc chống kết tập tiểu cầu chủ yếu là Aspirin, Dypiridamol, Aggrenox, Clopidogrel…
Thuốc đông y: Hoa đà tái tạo hoàn, là phương thuốc bí truyền dân gian Trung Quốc được nghiên cứu sản xuất dưới dạng viên hoàn, liều dùng 8 gam/1 lần x 2 lần/24h, một đợt điều trị 30 ngày, có thể uống 3 đợt liên tục và không có tai biến. Thuốc có tác dụng khu phong khai khiếu, hoạt huyết hóa ứ, tiêu sưng tán kết.
Ngoài ra còn nhiều loại đông dược thành phẩm khác như Hoạt huyết dưỡng não, Kỷ cúc địa hoàng hoàn, Tứ vật đào hồng…
ThS.BS Hoàng Khánh Toàn (Nguyên Chủ nhiệm khoa Đông Y, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108)