Tuổi trẻ sôi nổi
Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước còn chìm trong chiến tranh, tôi đã nung nấu ý chí khi lớn lên sẽ xả thân chiến đấu phụng sự đất nước. Vì thế, ngay từ khi cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 ở mặt trận Lạng Sơn nổ ra, tuy mới 17 tuổi nhưng tôi đã xung phong vào đội dân quân của thị trấn. Mặc dù không được vào bộ đội, nhưng không vì thế mà tôi buồn hay chán nản.
Tôi nhớ, thời gian ấy, tôi tham gia tiếp tế đạn dược cho đơn vị bộ đội địa phương đánh chặn kẻ địch ngay từ mảnh đất biên cương của Tổ quốc. Tôi được đơn vị giao nhiệm vụ tham gia gài mìn chống tăng trên con đường cửa khẩu Chi Ma. Đây là nhiệm vụ vô cùng nguy hiểm. Bởi khi làm nhiệm vụ, những tràng đại liên luôn nổ liên hồi ở những quả đồi gần đó, những loạt đạn pháo cối nổ dồn dập, mảnh pháo đỏ lừ chém trong không khí. Rồi tôi được tham gia chiến đấu trực tiếp bởi đơn vị địa phương quân tổn thất, không có lực lượng bổ sung.
Sự căng thẳng và khốc liệt của cuộc chiến khiến tôi không còn thấy sợ hãi và thực ra không có thời gian để nghĩ đến cái chết. Sau năm 1979, tôi được cử đi học và trở về làm cán bộ trợ lý hậu cần cho Tiểu đoàn 9 ở huyện Lộc Bình (tỉnh Lạng Sơn). Sau đó, tôi lấy vợ, một cô gái người dân tộc Tày, làm giáo viên ở một trường tiểu học, rồi tôi giải ngũ về địa phương.
Rơi vào bẫy hiểm “dìm giá” của thương lái Trung Quốc
Khi trở về địa phương, thấy điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn, vợ con đói khổ, tôi quyết định tìm kế sinh nhai để lo cho gia đình. Thấy bạn bè sang Trung Quốc lấy hàng hóa về bán kiếm lời và chuyển từ Việt Nam sang những mặt hàng mà dân buôn Trung Quốc đặt mua, kinh tế phất lên nhanh quá, tôi liền đi theo để làm ăn. Sự trượt ngã trong cuộc đời tôi bắt đầu từ đây.
Sau thời gian đi theo bạn bè sang Trung Quốc học cách làm ăn, tôi quyết định dốc hết toàn bộ vốn liếng của vợ chồng và vay mượn thêm của anh em, bạn bè để buôn hàng nông, lâm sản sang Trung Quốc bán kiếm lời. Nhờ biết tính toán, thời gian đầu, thần tài như mỉm cười với tôi, chuyến buôn nào cũng lãi, lãi hơn cả mức tưởng tượng của mình.
Khi một thương lái Trung Quốc đặt mua một mặt hàng mới vào thời điểm ấy là “xương cọ” với số lượng lớn, tôi vô cùng vui mừng. Để đáp ứng đơn hàng, tôi lên tận Thái Nguyên, thuê người, tuyển mộ nhân công, đặt mua nhiều cọ để khai thác làm hàng. Những tàu lá cọ được chặt xuống, cho nhân công dùng dao tuốt bỏ hết lá, chỉ còn những xương cọ, đem phơi khô, rồi chất xe mang qua Trung Quốc bán cho chủ hàng. Những chuyến hàng đầu tiên có lãi cao.
Sau đó, tôi sung sướng vay tiền, tuyển thêm nhân công, mua thêm nhiều cánh rừng cọ mở rộng sản xuất. Những chuyến hàng sau này, tôi không ngờ mình đã rơi vào bẫy hiểm “dìm giá” của thương lái Trung Quốc khi họ không mua hàng theo giá thỏa thuận nữa. Hậu quả, hàng chục tấn hàng xương cọ mang sang bên đó phải chất đống trong nhà kho.
Trong khi hàng bị găm lại ở bên kia biên giới thì ở Thái Nguyên, hàng đống xương cọ như núi vẫn “xuất xưởng” hằng ngày và tôi vẫn phải vay thêm tiền để trả cho các chủ đồi cọ đặt mua trước đó. Chỉ sau vài tháng, tôi bị phá sản, các chủ nợ săn tìm, thậm chí tôi phải trốn tránh họ.
Từ chuyện thua lỗ nói trên, tôi không còn biết làm gì nữa. Trong hoàn cảnh khốn cùng, tôi nghe lời vài người bạn làm ăn và quyết định dấn thân vào một bi kịch lớn là mua bán ma túy để mong kiếm tiền thật nhanh và trả được nợ. Hậu quả là tôi đã bị bắt quả tang khi mua bán một số lượng hêrôin khá lớn tại Lạng Sơn và bị tòa án tỉnh tuyên phạt tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Mong ngày trở về với vợ con
Thời khắc bị tuyên án tử, tôi nhớ mãi hình ảnh người mẹ già tóc bạc trắng ngất lên ngất xuống trong vòng tay của người thân, vợ tôi cũng đang suy sụp vì đau đớn trước tòa. Sau phiên phúc thẩm giữ nguyên bản án tử hình, tôi nói với vợ hãy tha thứ cho tôi và cố nuôi hai con nên người, tôi bảo sẽ không viết đơn xin tha tội chết vì chịu án chung thân cũng làm khổ thêm vợ con.
Cũng đã mấy ngày liền, người giám thị già của trại giam tỉnh Lạng Sơn vào thăm tử tù. Ông ngồi nói chuyện với tôi như một người anh đã từng cùng tôi cầm súng giữ chốt biên giới năm xưa, giữa cái sống và cái chết thời chiến tranh ngày nào.
Khi tôi ngộ ra, ông giám thị già mới đưa bức thư của đứa con gái nhỏ viết cho tôi, trong đó có đoạn: “Bố ơi! Con nhớ bố lắm. Đêm qua con nằm mơ thấy bố về, bố bế con trên tay và bảo: Từ nay, bố sẽ không bao giờ xa con, sẽ ở bên con mãi mãi. Con sung sướng hét to bố ơi! Giật mình tỉnh giấc, chẳng thấy bố đâu, con tự trách mình đã thức giấc, sao không mơ lâu hơn nữa để được bố bế trong tay!”.
Đọc xong lá thư, nước mắt tôi ướt đẫm và tôi xin giấy và bút để viết đơn xin Chủ tịch nước tha tội chết với một chút hi vọng mong manh. Sau hơn 700 đêm chờ thi hành án tử hình, như trong một giấc mơ được phục sinh, tôi được Chủ tịch nước tha tội chết và điều ước duy nhất của đứa con gái tôi đang dần thành sự thật. Trong thâm tâm, tôi biết bản án tử hình dành cho những kẻ gieo rắc cái chết trắng như tôi là đích đáng. Vì vậy, tôi không khỏi bàng hoàng, bất ngờ vì niềm vui quá lớn đến với mình.
Một lần nữa, Tổ quốc, người mẹ hiền lại mở lòng khoan dung, không chối bỏ những đứa con hư. Đã cho tôi sống để đứng dậy làm người. Tôi tự nhủ sẽ cố gắng sống tốt để làm lại, chuộc hết tội lỗi của mình, chỉ có vậy ngày trở về với người vợ hiền chung thủy, với hai đứa con yêu quý mới sớm đến...