“Chủ trương chính sách đất đai trong nông nghiệp”: Tích tụ, tập trung ruộng đất

Google News

Có nhiều định nghĩa khác nhau về tích tụ đất đai, tuy nhiên về cơ bản tương đối thống nhất về khái niệm:

Tích tụ đất đai (Land Accumulation) là sự tích lũy về đất đai, bản chất là tăng số lượng diện tích đất đai/ 1 đơn vị sản xuất (HGĐCN - Hộ gia đình cá nhân, tổ chức); Nguồn gốc: mua bán đất đai (các nước) , được Nhà nước giao đất, nhận chuyển nhượng QSDĐ (Việt Nam).
Tích tụ đất đai được xem là tiền đề phát triển kinh tế hộ gia đình trong quá độ chuyển từ sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Quá trình này vận động theo cơ chế thị trường, thông qua các hình thức giao dịch dân sự như mua bán đất (các nước Tư bản); chuyển nhựơng QSDĐ, thừa kế, tặng cho QSDĐ (Việt Nám). Một bộ phận HGĐCN có có kinh nghiệm sản xuất, sử dụng đất hiệu quả, có thu nhập, cónguồn vốn để nhận chuyển quyền sử dụng đất, mở rộng quy mô sử dụng đất (tích tụ ruộng đất); Tuy nhiên đa số hộ gia đình nông dân thiếu vốn sản xuất, muốn sử dụng đất hiệu quả, họ phải chọn hình thức khác (cho thuê hoặc góp vốn bằng QSDĐ).
Trên thế giới, trong lịch sử hơn 200 năm lập quốc, Hoa Kỳ với chủ trương bán đất nông nghiệp cho nông dân và các nhà đầu tư, Từ mục tiêu đạt 5,0 ha /hộ ban đầu đên năm 1990 nền nông nghiệp Mỹ có 1 triệu trang trại quy mô 150-200 ha, sản xuất nông sản với quy mô lớn để tiêu dùng và xuất khẩu. Nhật Bản sau cải cách ruộng đất (1946) với mục tiêu 1,0 ha/Hộ , sau 70 năm, ngày nay bình quân đất đai của Nhật Bản là 1,6 ha hộ nông dân , tuy nhiên với việc áp dụng KHCN tiên tiến trong nông nghiệp, số lao động nông nghiệp của Nhật Bản chỉ chiếm khoảng 4,5%tổng số lao động, quy mô và hiệu quả sử dụng đất rất cao
Tập trung đất đai, cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về tập trung đất đai, tuy nhiên về cơ bản cũng tương đối thống nhất về khai niệm: Tập trung đất đai là sự mở rộng quy mô diện tích đất đai do hợp nhất nhiều thửa đất lại hoặc hợp nhất nhiều đơn vị sản xuất liên quan đến sử dụng đất; bản chất là sự điều chỉnh và sắp xếp lại các thửa đất làm tăng diện tích đất đai / 1 thủa đất hoặc tăng quy mô sử dụng đất / tổ chức (doanh nghiệp, HTX), nguồn gốc: Hợp tác , liên doanh, liên kết sử dụng đất.
Tập trung đất đai luôn được coi là một công cụ hoặc điểm xuất phát cho phát triển nông thôn. Khái niệm ban đầu về phát triển nông thôn hầu như đồng nhất với phát triển nông nghiệp do vai trò chủ đạo của nông nghiệp ở nông thôn vào thời kỳ đầu phát triển. Sản xuất hàng hóa, quy mô lớn, tập trung, cần đầu tư khoa học công nghệ (giống cây con; phân bón; bảo vệ thục vật, thú y; kỹ thuật canh tác, chăn nuôi; máy móc thiết bị, chế biến, bảo quản nông sản; tiêu thụ hàng hóa); Sản xuất riêng lẻ của hộ gia đình cá nhân không đáp ứng được yêu cầu này; tất yếu có nhu cầu hợp tác sản xuất kinh doanh dưới các hình thức thích hợp: Họp tác sản xuất kinh doanh (từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm), góp vốn với các doanh nghiệp nông nghiệp)
Trong lịch sử Tập trung đất đai từng diễn ra trên quy mô lớn ở các nước XHCN trong thập niên 1960-1990 dưới các hình thức Nông trang, nông trường, xí nghiệp liên hiệp sản xuất nông nghiệp (các nước Đông Âu), Công xã nhân dân, hợp tác xã (Trung Quốc, Bắc Triều tiên, Việt Nam)
Chính sách pháp luật đất đai ở nước ta về tích tụ, tập trung đất đai
Chính sách đất đai: Trong quá trình Đổi mới từ năm 1986 đến nay , Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết liên quan đến đất đai, trong đó có những chủ trương, định hướng về tích tụ, tập trung đất đai, nhằm đổi mới chính sách pháp luật đất đai phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước với mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ bẩy (Khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn xác định: “Sửa đổi Luật đất đai theo hướng: tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất; thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh” (1 ĐCSVN, 2008)
Nghị quyết Số 19-NQ/TW(Khóa XI) ngày 31/10/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nghị quyết xác định: “Tiếp tục giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng có thời hạn theo hướng kéo dài hơn quy định hiện hành để khuyến khích nông dân gắn bó hơn với đất và yên tâm đầu tư sản xuất. Đồng thời, mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng, từng giai đoạn để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp. Sớm có giải pháp đáp ứng nhu cầu đất sản xuất và việc làm cho bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đang không có đất sản xuất”(2 ĐCSVN, 2012)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn (2021-2030), trong đó xác định: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, khai thác và phát huy lợi thể nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao…”(3 ĐCSVN, 2021)
Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 07 tháng 8 năm 2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện NQ 26-NQ/TW (Hội nghị TW 7, khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn;
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Pháp luật đất đai: Thể chế hóa chính sách đất đai của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến Pháp 1980, 1992, 2013, hệ thống pháp luật đất đai đã được hình thành và từng bước phát triển (Luật Đất đai 1987, Luật Đất đai 1993, Luật bổ sung, sửa đổi một số diều Luật Đất đai 1998, 2001, Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013).
i) Về chế độ sở hữu đất đai: Luật Đất đai 1987.1993, đều nhất quán quán triệt nguyên tắc “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” (Điều 1) , Luật Đất đai 2003 quy định cụ thể hơn: “1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. 2 Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai”; đến Luật Đất đai 2013 đã kế thừa, phát triển, hoàn thiện quy định về sở hữu đất đai “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.” (Điều 4)
ii) Về các quyền của người sử dụng đất: Luật Đất đai 1987 chỉ nêu nguyên tắc “Nhà nước đảm bảo cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi hợp pháp trên đất được giao” (Điều 3), đén Luật Đất đai 1993 đã quy định cụ thể “Ng¬ười sử dụng đất có các quyền sau đây:1.Ьược cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 2. Hưởng thành quả lao động và kết quả đầu tư¬ trên đất được giao. 3. Được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật...8 Được quyền khiếu nại tố cáo về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và và những hành vi khác vi phạm pháp luật đất đai” (Điều 73), đến Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Đất đai 1998 đã cụ thể hóa thành 5 quyền: “chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất “ (Điều 3). Luật Đất đai 2003 phát triển thành 9 quyền: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất , quyền thé chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất (Điều 106); Luật đất đai 2013 điều chỉnh còn 8 quyền [ bỏ quyền bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất]
Về chế độ sử dụng đất nông nghiệp, Luật Đất đai 2013 quy đinh mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản suất nông nghiệp và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đáp ứng yêu cầu tích tụ, tập trung đất đai đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực trạng tích tụ, tập trung ruộng đất ở nước ta
Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta giai đoạn (2011-2020)
Hiện trạng sử dụng đất đến 31.12.2018: Tổng diện tích tự nhiên: 33.123.597 ha, gồm:nhóm đất nông nghiệp 27.289.454 ha 82,38%;nhóm đất phi nông nghiệp: 3.773.750 ha, 11,39% 6,23%; nhóm đất chưa sử dụng: 2.060.393 ha.
Giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- Giao đất cho các đối tượng sử dụng:Tổng diện tích đất đã được giao cho các loại đối tượng sử dụng là 26.842.798 ha, chiếm 81,04% tổng diện tích tự nhiên (TDTĐTN) trong đó:hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng 15.875.758 ha, chiếm 47,93% TDTĐTN, bằng 59,14% diện tích đất Nhà nước giao các đối tượng sử dụng (ĐTSD).
- Giao đất cho các đối tượng để quản lý là 6.280.799 ha, chiếm 18,96% tổng diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó: UBND cấp xã quản lý 4.945.753 ha, chiếm 14,93% TDTĐTN và bằng 78,74% diện tích đất theo đối tượng quản lý (ĐTQL). [9]
- Cấp Giấy chứng nhận(GCN): tính đến tháng 9 năm 2018 cả nước đã cấp được 43,8 triệu GCN với 23,5 triệu ha, đạt 97,2% diện tích phải cấp GCN, trong đó đất sản xuất nông nghiệp đạt 93,5%, đất lâm nghiệp đạt 98,2%, đất nuôi trồng thủy sản đạt 89,4%, đất ở nông thôn đạt 96,2%, đất ở đô thị đạt 98,4%, đất chuyên dùng đạt 87,2 %, đất cơ sở tôn giáo 83,6% (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2018) [8] .
Thực trạng tích tụ ruộng đất
Hiện trạng sử dụng đất đến 2019
Tổng diện tích nhóm đất Nông nghiệp (1000 ha): 27.289,454 (100%), phân bố: i) Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung (BTB&DHMT): 8.041,204; ii) Miền núi trung du Bắc bộ (MNTDBB): 7.602,1; iii) Tây Nguyên (TN): 4.922,559; iv) Đồng bằng sông Cửu Long: (ĐBSCL): 3.406,777, v) Đông Nam Bộ (ĐNB): 1.899,035, vi) Đồng bằng sông Hồng: (ĐBSH): 3.406,777. (5. Bộ TNMT, 2020 Kết quả kiểm kê đất đai 2019)
Dân cư : Cả nước có 96.208.835 người, Số hộ Nông thôn 17.308.000 hộ, Hộ Nông nghiệp 9.344,000 chiếm 53,99% so với số hộ nông thôn. Các vùng tỷ lệ hộ nông nghiệp so với hộ nông thôn thấp là ĐNB 31,42%, ĐBSH 35,55%, trung bình BTB-DHMT 56,58%, Cao: ĐBSCL 57,78%. TDMNBB 74,41%, TN 84,74%
“Chu truong chinh sach dat dai trong nong nghiep”: Tich tu, tap trung ruong dat
 Quy mô sử dụng đất nông nghiệp hộ gia đình nông thôn, nông nghiệp
 Bảng 2 Quy mô sử dụng đất Hộ gia đình nông thôn , Hộ gia đình nông nghiệp
“Chu truong chinh sach dat dai trong nong nghiep”: Tich tu, tap trung ruong dat-Hinh-2
 
- Đất nông nghiệp: Bq ha/hộ nông thôn (HNt) 1,5800, bq/ha hộ nông nghiệp (HNn) 2,9210; cao nhât TN: 4,4750 ha/HNt, 4, 4750 ha/ HNn, 1,2302 ha/ HNt; thấp nhất ĐBSH: 0, 4686 ha/ HNn; 1,3183 ha/ HNn
- Đất Sản xuất nông nghiệp: Bq 0,6643 ha/ HNt, 1,2302 ha/ HNn; cao nhât TN : 2,2069 ha/ HNt, 2,6040 ha / HNn; thấp nhất ĐBSH: 0,2609 ha/ HNt, 0,7345/ ha/ HNn
- Đất Lâm nghiệp: Bq 0, 8632 ha/ HNt, 1,6000 ha/ HNn; cao nhât TN 2,2565 ha/ HNt, BTB-DHMT 2,5354 ha/ HNn; thấp nhất ĐBSCL: 0,0707 ha/ HNt, 0,1222 ha/ HNn
- Đất rừng sản xuất: Bq 0, 4321 ha/ HNt, 0.8005 ha/ HNn; cao nhât TN :1. 3366 ha/ HNt, 1,5771ha/ HNn; thấp nhất ĐBSCL: 0, 0276 ha/ HNt, 0,0477 ha/ HNn
Thực trạng tập trung ruộng đất
Kinh tế trang trại nông nghiệp :Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến giữa năm 2020, cả nước có khoảng 30.000 trang trại sử dụng 133.826ha đất sản xuất nông nghiệp (chiếm 0,6% đất sản xuất nông nghiệp cả nước), bình quân 4,54ha/trang trại (có gần 8.000 trang trại trồng trọt, với 89.432ha, bình quân 11,12ha/trang trại; 4.500 trang trại chăn nuôi với 16.777ha, bình quân 3,73ha/trang trại; 4.000 trang trại thủy sản với 6.442ha, bình quân 1,2ha/trang trại; 155 trang trại lâm nghiệp với 6.739ha, bình quân 43,47ha/trang trại; khoảng 3.000 trang trại tổng hợp với 12.636ha, bình quân 4,21ha/trang trại); vốn bình quân 1,3 tỷ đồng/trang trại; giá trị nông sản hàng hóa 1,5 tỷ đồng/năm/trang trại. Lao động của các trang trại chủ yếu là lao động gia đình, bao gồm cả chủ hộ trực tiếp tham gia sản xuất (chiếm trên 70%). Các trang trại tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng (hơn 7.000 trang trại), vùng Đông Nam bộ (hơn 6.700 trang trại), vùng đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 6.500 trang trại).
Kinh tế tập thể hợp tác xã trong nông nghiệp
Đến tháng 6 năm 2021 cả nước có 106 Liên hiệp hiệp tác xã (LHHTX), 26.145 Hợp tác xã (HTX), trong đó 17.066 HTX nông nghiệp , 7897 HTX phi Nông nghiệp , 1.188 Quỹ tín dụng nhân dân (QTD) , thu hút 6,81 triệu lao động, bình quân 1 HTX có 1,9 tỷ VNĐ tiền vốn và 15 lao động, tập trung tại các vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ; Đồng bằng sông Cửu long, . Có 119 Tổ hợp tác (THT), trong đó 73.577 THT Nông nghiệp , 46.206 THT Phi nông nghiệp , Quy mô Tổ hợp tác (THT) 3 tổ viên, Vốn huy động 46 triệu/THT, Lao đọng 10-20 /THT. Tỷ trọng sản xuất lương thực, thực phẩm và nông sản chủ lực khác do các HTX và THT sản xuất chiếm 15-25% tổng sản lượng hoặ giá trị dịch vụ (Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, 2021) (7. LMHTXVN, 2021)
Doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp có 10.065 đơn vị, chiếm 1,3 % tổng số doanh nghiệp các thành phần kinh tế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tuy có được cải thiện nhưng còn thấp. Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo khu vực sản xuất (Nông , lâm, thủy sản- Công nghiệp Xây dựng- Dịch vụ, 2018): Hiệu suất sử dụng lao động-lần (8,1-13,1-18,5), Hiệu suất sinh lời trên tài sản-ROA% (1,0 -3,9- 1,7); Hiệu suât sinh lời trên doanh thu ROS % (2,7-4,1-3,5) (8TCTK . Niên giám thống kê 2018)
Đặc điểm tập trung ruộng đất:hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp tuy có phát triển về số lượng nhưng tập trung ruộng đất còn hạn chế, quy mô sử dụng đất thấp; các hình thưc dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh động lớn với các mô hình liên doanh liên kết khác nhau áp dụng chủ yếu đối với đất trồng cây hàng năm (lúa, ngô, mía) và trồng cây lâu năm, chăn nuôi gia súc quy mô nhỏ. Hiệu quả sử dụng đất chưa cao, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế quỹ đất nông nghiệp
Tác động của tích tụ, tập trung ruộng đất đến sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa: Trong giai đoạn 2016-2020, thực hiện tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt 2,8-3,0 %.. Nhiều doanh nghiệp tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhiều sản phẩm nông nghiệp hàng hóa đứng ở vị trí tốp đầu nông sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế (2019) như: Lúa, sản lượng 43,45 triệu tấn , xuất khẩu 6,34 triệu tấn, giá trị 2,79 tỷ USD. Cà phê, sản lượng 1,68 triệu tấn (đứng thứ 2 sau Braxin) , xuất khẩu: 1,65 triệu tấn , đạt 2,85 tỷ; Cao su: sản lượng mủ khô 1,17 triệu tấn xuất khẩu: 1,70 triệu tấn , đạt 2,30 tỷ USD. Hồ tiêu: sản lượng 287 nghìn tấn, xuất khẩu: 262 nghìn tấn , đạt 722 triệu tỷ USD; Điều, sản lượng 284 nghìn tấn (đứng thứ 2 thế giới sau Ấn Độ), xuất khẩu: 455,63 nghìn tấn, giá trị 3,29 tỷ USD; Chè, sản lượng 1,02 triệu tấn, xuất khẩu: 131,1 nghìn tấn,giá trị 243,6 triệu USD
Năm 2020 Nông sản là mặt hàng xuất khẩu nổi trội trong tổng kim ngạch xuất khẩu (544 tỷ USD), với giá trị xuất khẩu đạt 41,2 tỷ USD: Gạo 3, 120; Cà phê 2, 741; Cao su 2,384; Điều 3,211; Hạt tiêu 0,661 , Chè 0,218; Rau quả: 3.269; Sắn và các sản phẩm chế biến từ sắn: 1,012; Cá tra: 1,490; Tôm 3,700; Gỗ và các sản phẩm từ gỗ 12,372 (Tỷ USD)(9. hpttps//vioit.0rrg/vn4378.4050.htm)
Xây dựng nông thôn mới: Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, Đến hết tháng 6/2020: Cả nước có 5.177 xã (58,2%) đạt chuẩn nông thôn mới; có 09 tỉnh, thành phố có 100% số xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; bình quân cả nước đạt 16,2 tiêu chí/xã nông thôn mới; cả nước không còn xã dưới 5 tiêu chí. Có 127/664 đơn vị cấp huyện (chiếm khoảng 18,8%, thuộc 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới. Có 02 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Tính đến cuối tháng 11/2020, cả nước có 5.415 xã và 173 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 về phát triển ngành nghề nông thôn và Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Theo đó, số lượng địa phương tham gia OCOP liên tục tăng; đến hết năm 2020, cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố phê duyệt Đề án, Kế hoạch OCOP cấp tỉnh; các địa phương đánh giá, phân hạng và công nhận 2.400 sản phẩm OCOP (đạt 100% kế hoạch). (10. https://htm)
Những hạn chế về nguồn lực đất đai và tích tụ, tập trung đất nông nghiệp
Thứ nhất: Quỹ đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng có hạn về số lượng và chất lượng
Một là về số lượng: Tổngdiện tích tự nhiên (ngày 31-12-2018) là 33.123.597ha, đất sản xuất nông nghiệp là 11.383.751 ha (chiếm 34,36%). Dân số (ngày 1-4-2019) là 96.208.984 người (nam 49,8%, nữ 50,2%), là quốc gia đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonosia và Philippines) và đứng thứ 15 trên thế giới. Chỉ số diện tích đất trên đầu người thấp: Đất tự nhiên là 0,3443 ha/ người, đất nông nghiệp là 0,2836 ha/người, đất sản xuất nông nghiệp là 0,1195 ha/người.
Hai là về chất lượng đất, thoái hóa đất đang diễn ra khá nghiêm trọng: Cả nước hiện có 11,8 triệu héc-ta đất bị thoái hóa, chiếm 35,74% diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó có hơn 1,2 triệu héc-ta đất bị thoái hóa nặng, hơn 3,7 triệu héc-ta đất bị thoái hóa trung bình và gần 6,9 triệu héc-ta đất bị thoái hóa nhẹ. Đất chất lượng xấu có hơn 4,5 triệu héc-ta, chiếm 13,69% tổng diện tích tự nhiên. Là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của Biến đổi khí hậu
Thứ hai: Quỹ đất nông nghiệp nước ta đã khai thác đến trần giới hạn, phân bố nguồn lực đất đai chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hóa quy mô lớn tập trung trong giai đoạn hiện nay
Một là: diện tích đất nông nghiệp nước ta là 27.289.544ha; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 11.383.751ha; có thể nói tiềm năng đất nông nghiệp đã khai thác đến trần, khả năng khai thác thêm là hạn chế
Hai là , hiện tại quỹ đất sản xuất nông nghiệp, Nhà nước giao hộ gia đình cá nhân sử dụng 10.291.950ha (chiếm 90,40%), các đối tượng khác được giao 1.091.801ha (chiếm 9,60%).Nguồn lực đất sản xuất nông nghiệp tập trung vàohộ gia đình cá nhân, trong khi các đối tượng khác, trong đó cáo các tổ chức kinh tế trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thiếu đất sản xuất, khó tiếp cận với đất để đầu tư sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn
Thứ ba, sản xuất nông nghiệp thuần nông, quy mô nhỏ là phổ biến:
Một là quy mô sử dụng đất của Hộ gia đình nông thôn, nông nghiệprất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới: đất nông nghiệp bình quân 1,58ha/hộ nông thôn, 2,921ha/hộ nông nghiệp; đất sản xuất nông nghiệpbình quân 0,6643ha/hộ nông thôn, 1,2302ha/hộ nông nghiệp;
Hai là: quy mô sử dụng đất của các Liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã, tổ hợp tác , doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp thấp; Khả năng tập trung ruộng đất theo mô hình sản xuất àng hóa tập trung quy mô lớn hạn chế; các hình thưc dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh động lớn với các mô hình liên doanh liên kết khác nhau áp dụng chủ yếu đối với đất trồng cây hàng năm (lúa, ngô, mía) và trồng cây lâu năm, chăn nuôi gia súc quy mô nhỏ. hiệu quả sử dụng đất chưa cao, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế quỹ đất nông nghiệp
Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân của tình trạng sử dụng đất phân tán, quy mô nhỏ của hộ nông dân là:
Thứ nhất: Điểm xuất phát của kinh tế nước ta là sản xuất nông nghiệp thuần nông tự cung tự cấp. Nông dân chiếm đa số trong tổng dân số cả nước, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội; nguồn gốc đất nông nghiệp của hộ gia đình được Nhà nước giao đất sản xuất ổn định lâu dài không thu tiền . Chính sách giao đất cho hộ gia đình cá nhân là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở nước ta trong suốt mấy thập niên qua và góp phần đưa Việt Nam trở thành nước cung cấp nông sản hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, việc thực hiện giao đất nông nghiệp bình quân theo nhân khẩu nông thôn (có tốt, có xấu, có gần, có xa, chết không thu hồi, sinh không giao thêm) đã dẫn đến tình trạng ruộng đất manh mún lâu dài, tuy từng bước khắc phục qua “dồn điển, đổi thửa”, xây dựng “cánh đồng mẫu lớn”, nhưng đến nay tình trạng đất nông nghiệp phân tán vẫn là phổ biến.
Thứ hai, thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp chậm phát triển, chưa đáp ứng nhu cầu cung cấp đất nông nghiệp cho các chủ thể sử dụng đất nông nghiệp.
Thị trường QSDĐ nông nghiệp nước ta chưa phát triển. Đó là một thị trường tiềm năng trong đó Nhà nước đã giao cho hộ gia đình cá nhân trên 10 triệu héc-ta đất sản xuất nông nghiệp và cấp giấy chứng nhận QSDĐ đạt trên 90%. Hiện tại, nguồn cung đất nông nghiệp trên thị trường phụ thuộc vào hoạt động của thị trường thứ cấp (giao dịch chuyển QSDĐ giữa các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật). Tuy nhiên, thị trường QSDĐ nông nghiệp hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng;
Giải pháp thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất
Một là quán triệt, tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng theo Nghị Quyết Đại hội XIII và Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa XIII) về tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật đất đai; về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về vấn đề phát triển kinh tế tập thể
“1. Về vấn đề quản lý và sử dụng đất đai: Quyền sử dụng đất là quyền sử dụng một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu; quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được pháp luật bảo hộ. Người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai; không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân; có chính sách để đất nông nghiệp được sử dụng một cách có hiệu quả cao nhất.”…
“2. Về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn: Phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm, tích hợp đa giá trị theo hướng giữ vững an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn. Phát huy lợi thế vùng, miền; tổ chức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chuyển mạnh từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường, nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh; phát triển cả thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.”…
“3. Về vấn đề phát triển kinh tế tập thể: Khẳng định phát triển kinh tế tập thể là xu thế tất yếu khách quan và phải xuất phát từ nhu cầu thiết thực của các thành viên; bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện cho các thành viên hăng say làm việc, lao động tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững; tôn trọng các giá trị, nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã, phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng vùng và của cả nước. Kinh tế tập thể có nhiều hình thức tổ chức, hợp tác đa dạng, phát triển từ thấp đến cao (tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã...), trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Kinh tế tập thể phát triển dựa trên sở hữu riêng của thành viên và sở hữu chung của tổ chức; tổ chức hoạt động theo nguyên tắc đối nhân, không chỉ phụ thuộc vào vốn góp; phân phối theo mức độ tham gia dịch vụ, theo lao động và theo vốn góp. Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm cả lợi ích của thành viên, của tập thể và lợi ích của xã hội, của Nhà nước; đồng thời coi trọng lợi ích về chính trị, văn hoá, xã hội trên địa bàn.” (5, ĐCSVN, Hội nghị Trung ương 5 (Khóa XIII)
Hai là , khắc phục tình trạng sử dụng đất phân tán, quy mô nhỏ.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển từ sản xuất nông nghiệp thuần nông sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất gắn với phân công lao động trong nông nghiệp, nông thôn, giảm dần số hộ và lao động trực tiếp trong khu vực sản xuất nông nghiệp.
- Khuyến khích, hỗ trợ vốn, tạo cơ hội để các hộ nông dân có kinh nghiệm sản xuất kinh doanh tích tụ ruộng đất, phát triển trang trại, tham gia HTX, liên kết với các doanh nghiệp, tiếp cận công nghệ hiện đại, phát triển, nâng cao trình độ, năng lực sản xuất hàng hóa phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế.
- Khuyến khích, hỗ trợ hộ nông dân không có nhu cầu sản xuất nông nghiệp (do hết tuổi lao động, chuyển sang ngành, nghề khác) hoặc không có khả năng sản xuất (thiếu lao động, thiếu vốn, sản xuất không hiệu quả) chuyển QSDĐ hoặc cho thuê các chủ thể có nhu cầu, có vốn, có năng lực tổ chức sản xuất nông nghiệp để thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Ba là phát triển thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Cần rà soát, điều chỉnh cơ chế, chính sách, pháp luật về tài chính đất đai, giá đất, định giá đất, điều kiện và thủ tục thực hiện chuyển QSDĐ đối với đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, tạo điều kiện cho các chủ thể sử dụng đất có cơ hội tiếp cận nguồn cung đất nông nghiệp trên thị trường QSDĐ thông thoáng, tuân thủ pháp luật
 
TS Nguyễn Đình Bồng

>> xem thêm

Bình luận(0)