Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru dựa trên tầm nhìn của mình về "châu Á hồi sinh" và trên tình hữu nghị giữa hai quốc gia lớn nhất châu Á. Ông đã đưa ra một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa quốc tế, được điều hành bởi năm nguyên tắc chung sống hòa bình mà ban đầu ông tin rằng đã được Trung Quốc chia sẻ.Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1/4/1950, một quốc gia phi cộng sản và một quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở châu Á làm như vậy.Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông coi Tây Tạng là một bộ phận hợp thành của Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa. Chính phủ tiền thân của Trung Hoa Dân Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch cũng tuyên bố Tây Tạng là lãnh thổ của Trung Quốc, tuy nhiên đã không thể tái khẳng định quyền kiểm soát.Chủ tịch Mao coi mối quan tâm của Ấn Độ đối với Tây Tạng là biểu hiện của sự can thiệp vào công việc nội bộ của CHND Trung Hoa. Để tránh gây phản cảm với CHND Trung Hoa, Nehru thông báo với các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng Ấn Độ không có tham vọng chính trị hay tham vọng lãnh thổ ở khu vực này.Ấn Độ không tìm kiếm các đặc quyền trong Tây Tạng nhưng quyền kinh doanh truyền thống với vùng này vẫn phải tiếp tục. Với sự hỗ trợ của Ấn Độ, các đại biểu Tây Tạng đã ký một thỏa thuận vào tháng 5/1951 công nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa nhưng đảm bảo rằng hệ thống chính trị và xã hội hiện có của Tây Tạng sẽ tiếp tục.Vào tháng 4/1954, Ấn Độ và CHND Trung Hoa đã ký một thỏa thuận kéo dài 8 năm về Tây Tạng, trở thành Năm Nguyên tắc Chung sống Hòa bình. Vào tháng 10/1954, cả hai nước đã ký một hiệp định thương mại, mà theo các chuyên gia, rất có lợi cho Trung Quốc.Người ta thường nhận định rằng câu cửa miệng trong ngoại giao của Ấn Độ với Trung Quốc trong những năm 1950 là “Hindi-Chini bhai-bhai”, trong tiếng Hindi có nghĩa là "Người Ấn Độ và Trung Quốc là anh em". Nehru đã tìm cách bắt đầu một cuộc đối thoại trực tiếp hơn giữa các dân tộc Trung Quốc và Ấn Độ về văn hóa và văn học.Vào khoảng thời gian đó, nghệ sĩ (họa sĩ) Ấn Độ nổi tiếng Beohar Rammanohar Sinha, người trước đó đã trang trí các trang của bản Hiến pháp gốc của Ấn Độ, đã được cử đến Trung Quốc vào năm 1957 theo sự cho phép của Chính phủ Ấn Độ để thiết lập một nền văn minh đa văn hóa và liên văn minh trực tiếp.Học giả Ấn Độ nổi tiếng Rahul Sankrityayan và nhà ngoại giao Natwar Singh cũng có mặt ở đó và Sarvapalli Radhakrishnan đã có chuyến thăm tới CHND Trung Hoa. Do đó, cho đến năm 1959, bất chấp các cuộc đụng độ biên giới, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thân thiện đảm bảo với Ấn Độ rằng không có tranh cãi về lãnh thổ.Năm 1954, Ấn Độ xuất bản các bản đồ mới bao gồm vùng Aksai Chin trong ranh giới của Ấn Độ. Khi Ấn Độ phát hiện ra rằng Trung Quốc xây dựng một con đường xuyên khu vực, các cuộc đụng độ ở biên giới và các cuộc biểu tình của Ấn Độ trở nên thường xuyên hơn.Vào tháng 1/1959, Thủ tướng CHND Trung Hoa Chu Ân Lai đã viết thư cho Nehru, chỉ ra rằng không có chính phủ nào ở Trung Quốc chấp nhận là hợp pháp Đường McMahon, mà Công ước Simla năm 1914 xác định phần phía đông của biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng.Vào tháng 3/1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đứng đầu về mặt tinh thần của Tây Tạng, đã tìm đến khu bảo tồn ở Dharmsala, Himachal Pradesh, nơi ông thành lập chính phủ lưu vong của Tây Tạng. Hàng ngàn người tị nạn Tây Tạng đã sang định cư ở tây bắc Ấn Độ.CHND Trung Hoa đã cáo buộc Ấn Độ về chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa đế quốc ở Tây Tạng và khắp vùng Himalaya. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với những vùng lãnh thổ rộng lớn mà trên đó các bản đồ của Ấn Độ cũng thể hiện chủ quyền rõ ràng và yêu cầu "cải chính" toàn bộ biên giới.Kể từ sự kiện đó, các vụ việc xung đột và tranh chấp tại biên giới giữa Ấn Độ - Trung Quốc xảy ra thường xuyên và có những thời điểm bùng phát thành chiến tranh. Cho đến tận ngày nay biên giới Ấn – Trung vẫn là một trong những khu vực căng thẳng nhất trên thế giới. Nguồn ảnh: Warhistory.
Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru dựa trên tầm nhìn của mình về "châu Á hồi sinh" và trên tình hữu nghị giữa hai quốc gia lớn nhất châu Á. Ông đã đưa ra một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa quốc tế, được điều hành bởi năm nguyên tắc chung sống hòa bình mà ban đầu ông tin rằng đã được Trung Quốc chia sẻ.
Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1/4/1950, một quốc gia phi cộng sản và một quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở châu Á làm như vậy.
Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông coi Tây Tạng là một bộ phận hợp thành của Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa. Chính phủ tiền thân của Trung Hoa Dân Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch cũng tuyên bố Tây Tạng là lãnh thổ của Trung Quốc, tuy nhiên đã không thể tái khẳng định quyền kiểm soát.
Chủ tịch Mao coi mối quan tâm của Ấn Độ đối với Tây Tạng là biểu hiện của sự can thiệp vào công việc nội bộ của CHND Trung Hoa. Để tránh gây phản cảm với CHND Trung Hoa, Nehru thông báo với các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng Ấn Độ không có tham vọng chính trị hay tham vọng lãnh thổ ở khu vực này.
Ấn Độ không tìm kiếm các đặc quyền trong Tây Tạng nhưng quyền kinh doanh truyền thống với vùng này vẫn phải tiếp tục. Với sự hỗ trợ của Ấn Độ, các đại biểu Tây Tạng đã ký một thỏa thuận vào tháng 5/1951 công nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa nhưng đảm bảo rằng hệ thống chính trị và xã hội hiện có của Tây Tạng sẽ tiếp tục.
Vào tháng 4/1954, Ấn Độ và CHND Trung Hoa đã ký một thỏa thuận kéo dài 8 năm về Tây Tạng, trở thành Năm Nguyên tắc Chung sống Hòa bình. Vào tháng 10/1954, cả hai nước đã ký một hiệp định thương mại, mà theo các chuyên gia, rất có lợi cho Trung Quốc.
Người ta thường nhận định rằng câu cửa miệng trong ngoại giao của Ấn Độ với Trung Quốc trong những năm 1950 là “Hindi-Chini bhai-bhai”, trong tiếng Hindi có nghĩa là "Người Ấn Độ và Trung Quốc là anh em". Nehru đã tìm cách bắt đầu một cuộc đối thoại trực tiếp hơn giữa các dân tộc Trung Quốc và Ấn Độ về văn hóa và văn học.
Vào khoảng thời gian đó, nghệ sĩ (họa sĩ) Ấn Độ nổi tiếng Beohar Rammanohar Sinha, người trước đó đã trang trí các trang của bản Hiến pháp gốc của Ấn Độ, đã được cử đến Trung Quốc vào năm 1957 theo sự cho phép của Chính phủ Ấn Độ để thiết lập một nền văn minh đa văn hóa và liên văn minh trực tiếp.
Học giả Ấn Độ nổi tiếng Rahul Sankrityayan và nhà ngoại giao Natwar Singh cũng có mặt ở đó và Sarvapalli Radhakrishnan đã có chuyến thăm tới CHND Trung Hoa. Do đó, cho đến năm 1959, bất chấp các cuộc đụng độ biên giới, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thân thiện đảm bảo với Ấn Độ rằng không có tranh cãi về lãnh thổ.
Năm 1954, Ấn Độ xuất bản các bản đồ mới bao gồm vùng Aksai Chin trong ranh giới của Ấn Độ. Khi Ấn Độ phát hiện ra rằng Trung Quốc xây dựng một con đường xuyên khu vực, các cuộc đụng độ ở biên giới và các cuộc biểu tình của Ấn Độ trở nên thường xuyên hơn.
Vào tháng 1/1959, Thủ tướng CHND Trung Hoa Chu Ân Lai đã viết thư cho Nehru, chỉ ra rằng không có chính phủ nào ở Trung Quốc chấp nhận là hợp pháp Đường McMahon, mà Công ước Simla năm 1914 xác định phần phía đông của biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng.
Vào tháng 3/1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đứng đầu về mặt tinh thần của Tây Tạng, đã tìm đến khu bảo tồn ở Dharmsala, Himachal Pradesh, nơi ông thành lập chính phủ lưu vong của Tây Tạng. Hàng ngàn người tị nạn Tây Tạng đã sang định cư ở tây bắc Ấn Độ.
CHND Trung Hoa đã cáo buộc Ấn Độ về chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa đế quốc ở Tây Tạng và khắp vùng Himalaya. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với những vùng lãnh thổ rộng lớn mà trên đó các bản đồ của Ấn Độ cũng thể hiện chủ quyền rõ ràng và yêu cầu "cải chính" toàn bộ biên giới.
Kể từ sự kiện đó, các vụ việc xung đột và tranh chấp tại biên giới giữa Ấn Độ - Trung Quốc xảy ra thường xuyên và có những thời điểm bùng phát thành chiến tranh. Cho đến tận ngày nay biên giới Ấn – Trung vẫn là một trong những khu vực căng thẳng nhất trên thế giới. Nguồn ảnh: Warhistory.