Trong gần bảy thập kỷ tồn tại, tổ hợp công nghiệp-quốc phòng của Liên Xô đã khiến phương Tây phải ngạc nhiên với những hệ thống vũ khí rẻ tiền, nguy hiểm và hiệu quả. Sau khi Liên Xô tan rã, Nga đã kế thừa và tích cực phát triển những siêu vũ khí để khẳng định sức mạnh của mình.Đầu tiên là thiết giáp hạm lớp Sovetsky Soyuz, vào cuối những năm 1930, nền kinh tế Liên Xô đã phục hồi đến mức có thể xem xét xây dựng một chương trình hải quân quy mô lớn, bao gồm các tàu chiến-tuần dương và tàu sân bay, trong đó có các thiết giáp hạm lớp Sovetsky Soyuz.Thiết kế dựa trên lớp Littorio của Italia, những chiếc Sovetsky Soyuz có lượng choán nước khoảng 60.000 tấn, trang bị 9 khẩu pháo 40mm và có tốc độ 28 hải lý/giờ. Điều này giúp những tàu chiến này có kích thước cạnh tranh với các thiết giáp hạm mạnh nhất trên thế giới.Liên Xô đã đặt hàng đóng bốn chiếc từ năm 1938 đến năm 1940 trong tổng số mười sáu thiết giáp hạm được dự kiến. Tuy nhiên, một chiếc đã bị hủy bỏ vào năm 1940 vì tay nghề kém. Ba chiếc còn lại đã bị đình chỉ khi chiến tranh thế giới 2 nổ ra và sau chiến tranh các con tàu này đã bị tháo dỡ do không còn phù hợp với yêu cầu.Thứ hai là tàu sân bay lớp Ulyanovsk, Liên Xô bắt đầu nghiên cứu chế tạo tàu sân bay ngay sau Cách mạng tháng 10, nhưng cũng như với các thiết giáp hạm, do nền kinh tế rối loạn, tình trạng công nghiệp lạc hậu của Liên Xô và Chiến tranh thế giới thứ hai đã phá vỡ quy hoạch.Sau chiến tranh, với những nỗ lực đầy tham vọng dưới thời Stalin, các nhà chức trách Liên Xô đã tiến hành những nỗ lực tuần tự, khiêm tốn hơn trong việc chế tạo tàu sân bay. Các tàu sân bay trực thăng lớp Moskva đi vào hoạt động từ giữa những năm 1960, tiếp theo là các tàu sân bay lớp Kiev trong những năm 1970 và 1980.Hải quân Liên Xô kỳ vọng lớp Ulyanovsk sẽ kế nhiệm tàu Kuznetsov, với trọng tải hơn 80.000 tấn và chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ulyanovsk là đối thủ cạnh tranh thực sự đầu tiên của Liên Xô với các siêu tàu sân bay Mỹ. Tàu sân bay có đủ năng lực máy phóng để phóng máy bay chiến đấu cường kích và máy bay cảnh báo sớm, khiến nó ít nhiều ngang bằng với các tàu sân bay cùng thời của Mỹ.Tuy nhiên, cũng như rất nhiều hệ thống vũ khí của Liên Xô, chiến tranh Lạnh kết thúc và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết khiến việc hoàn thành Ulyanovsk là không thể. Mặc dù chương trình tàu sân bay của Liên Xô đã thất bại nhưng nó cũng giúp tạo ra một lực lượng tàu kiểm soát trên biển và một đội ngũ phi công hải quân.Thứ ba là máy bay ném bom hạng nặng, mặc dù lực lượng Không quân Liên Xô chưa bao giờ nổi tiếng về ném bom chiến lược trong Thế chiến thứ hai, nhưng trong suốt cuộc chiến, Liên Xô đã thử nghiệm rất nhiều với máy bay ném bom tầm xa.Thời gian đầu của cuộc chiến, Liên Xô đã sử dụng Pe-8, một máy bay ném bom gần như tương đương với Avro Lancaster và Boeing B-17 của Mỹ. Pe-8 không bao giờ đạt được mức độ thành công như hai máy bay Mỹ, phần lớn là do các vấn đề về thiết kế.Ngoài ra, Liên Xô cũng đã thử nghiệm một số dự án thực sự hoành tráng, bao gồm máy bay ném bom hạng nặng K-7, dòng máy bay TB-3, ANT-20, TB-6. Đặc biệt, máy bay ANT-20 có 8 động cơ và có thể chở 72 hành khách, ANT-26 là một biến thể của ANT-20, với 12 động cơ và lớn hơn đáng kể so với B-29 của Mỹ.Tuy nhiên những chiếc máy bay quái vật này chỉ xuất hiện ở dạng nguyên mẫu, do Liên Xô lúc bấy giờ đang tập trung các nguồn lực cho lực lượng mặt đất chống quân Đức. Ngoài ra, những chiếc ANT-26 khổng lồ cũng sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng đối với các máy bay đánh chặn của Đức.Không giống như các Đồng minh phương Tây, Liên Xô không muốn lãng phí nguồn lực cho một chiến dịch ném bom chiến lược kéo dài và tốn kém; họ cần phải đánh bại lục quân Đức trên chiến trường. Nếu Liên Xô chọn con đường ném bom chiến lược, họ có thể đã không chống lại được bước tiến của quân Đức.Thứ tư là xe tăng siêu nặng Tu-42, các kỹ sư Liên Xô đã dự tính chế tạo xe tăng “siêu nặng”, loại xe có trọng lượng gấp 3, thậm chí 4 lần so với xe tăng chiến đấu tiêu chuẩn. Ấn tượng nhất trong số các thiết kế được trình lên Bộ Tổng tham mưu Liên Xô là T-42, một con quái vật nặng 100 tấn với ba tháp pháo và kíp lái từ 14-15 người.T-42 chưa bao giờ được thử nghiệm, nhưng đã được giới quân sự Liên Xô xem xét nghiêm túc. Các dự án khác có phần thực tế hơn như T-35, T-100, SMK, KV-4 và KV-5, nhưng chỉ có T-35, loại xe tăng nặng 45 tấn với 5 tháp pháo, được đưa vào sản xuất. Và tất cả 61 chiếc T-35 đều bị mất trong giai đoạn mở đầu của Chiến dịch Barbarossa, thường là do lỗi cơ khí.Giống như hầu hết các loại xe tăng siêu nặng khác, T-42 quá nặng, quá đắt và quá chậm để được sản xuất. Tuy nhiên, nếu Hồng quân quyết tâm tạo ra cỗ máy này, T-42 có thể sẽ làm sai lệch học thuyết thiết giáp của Liên Xô và chứng minh là vô dụng về mặt chiến thuật.Cuối cùng là máy bay T-4, là bản sao trực tiếp của những chiếc B-29 Mỹ bị Liên Xô thu giữ được. T-4 là câu trả lời của Liên Xô cho B-70 Valkyrie của Mỹ. T-4 là một chiếc máy bay ném bom rất lớn, cực nhanh có khả năng bay ở độ cao lớn, máy bay đã được thử nghiệm và về nhiều mặt đã vượt quá giới hạn của ngành công nghiệp quốc phòng Liên Xô.T-4 có thể đạt tốc độ Mach 3, với trần bay khoảng 24 km, T-4 giống B-70 về mặt hình dáng và khả năng. Tuy nhiên, do tổ chức lực lượng không quân ở Liên Xô khác với Mỹ, nên T-4 cũng được xem xét cho các nhiệm vụ chiến thuật, chẳng hạn như trinh sát và vận chuyển tên lửa chống hạm. Ý tưởng về một chiếc T-4 mang tên lửa chống hạm Kh-22 quả thực rất đáng sợ.Tuy nhiên, trình độ công nghệ của Liên Xô lúc bấy giờ chưa thể đáp ứng nhiều yêu cầy kỹ thuật của máy bay. Hơn nữa, T-4 cũng gặp phải nhiều vấn đề về đánh chặn và chỉ có 35 chiếc T-4 sau này được chế tạo.Nếu Liên Xô theo đuổi T-4, họ sẽ phải từ bỏ phần lớn phi đội không quân chiến thuật của mình. Tuy nhiên, Liên Xô cũng sẽ có một máy bay ném bom siêu thanh với tên lửa chống hạm, điều này sẽ khiến việc phòng thủ của các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ phức tạp hơn cả sự xuất hiện của Tu-22M, một máy bay ném bom tầm xa nhỏ hơn, ngắn hơn.Việc sản xuất T-4 cũng có thể dẫn đến những thay đổi trong mua sắm quốc phòng của Mỹ, với khả năng tập trung nhiều hơn vào B-1A và lực lượng đánh chặn chiến lược. Mặc dù cực kỳ tốn kém để duy trì, nhưng vẫn có một số chiếc T-4 sống sót sau sự sụp đổ của Liên Xô để phục vụ trong Không quân Nga. Nguồn ảnh: Warhistory. Cận cảnh sức mạnh của máy bay quân sự T-4 - huyền thoại một thời của Liên Xô. Nguồn: VK.
Trong gần bảy thập kỷ tồn tại, tổ hợp công nghiệp-quốc phòng của Liên Xô đã khiến phương Tây phải ngạc nhiên với những hệ thống vũ khí rẻ tiền, nguy hiểm và hiệu quả. Sau khi Liên Xô tan rã, Nga đã kế thừa và tích cực phát triển những siêu vũ khí để khẳng định sức mạnh của mình.
Đầu tiên là thiết giáp hạm lớp Sovetsky Soyuz, vào cuối những năm 1930, nền kinh tế Liên Xô đã phục hồi đến mức có thể xem xét xây dựng một chương trình hải quân quy mô lớn, bao gồm các tàu chiến-tuần dương và tàu sân bay, trong đó có các thiết giáp hạm lớp Sovetsky Soyuz.
Thiết kế dựa trên lớp Littorio của Italia, những chiếc Sovetsky Soyuz có lượng choán nước khoảng 60.000 tấn, trang bị 9 khẩu pháo 40mm và có tốc độ 28 hải lý/giờ. Điều này giúp những tàu chiến này có kích thước cạnh tranh với các thiết giáp hạm mạnh nhất trên thế giới.
Liên Xô đã đặt hàng đóng bốn chiếc từ năm 1938 đến năm 1940 trong tổng số mười sáu thiết giáp hạm được dự kiến. Tuy nhiên, một chiếc đã bị hủy bỏ vào năm 1940 vì tay nghề kém. Ba chiếc còn lại đã bị đình chỉ khi chiến tranh thế giới 2 nổ ra và sau chiến tranh các con tàu này đã bị tháo dỡ do không còn phù hợp với yêu cầu.
Thứ hai là tàu sân bay lớp Ulyanovsk, Liên Xô bắt đầu nghiên cứu chế tạo tàu sân bay ngay sau Cách mạng tháng 10, nhưng cũng như với các thiết giáp hạm, do nền kinh tế rối loạn, tình trạng công nghiệp lạc hậu của Liên Xô và Chiến tranh thế giới thứ hai đã phá vỡ quy hoạch.
Sau chiến tranh, với những nỗ lực đầy tham vọng dưới thời Stalin, các nhà chức trách Liên Xô đã tiến hành những nỗ lực tuần tự, khiêm tốn hơn trong việc chế tạo tàu sân bay. Các tàu sân bay trực thăng lớp Moskva đi vào hoạt động từ giữa những năm 1960, tiếp theo là các tàu sân bay lớp Kiev trong những năm 1970 và 1980.
Hải quân Liên Xô kỳ vọng lớp Ulyanovsk sẽ kế nhiệm tàu Kuznetsov, với trọng tải hơn 80.000 tấn và chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ulyanovsk là đối thủ cạnh tranh thực sự đầu tiên của Liên Xô với các siêu tàu sân bay Mỹ. Tàu sân bay có đủ năng lực máy phóng để phóng máy bay chiến đấu cường kích và máy bay cảnh báo sớm, khiến nó ít nhiều ngang bằng với các tàu sân bay cùng thời của Mỹ.
Tuy nhiên, cũng như rất nhiều hệ thống vũ khí của Liên Xô, chiến tranh Lạnh kết thúc và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết khiến việc hoàn thành Ulyanovsk là không thể. Mặc dù chương trình tàu sân bay của Liên Xô đã thất bại nhưng nó cũng giúp tạo ra một lực lượng tàu kiểm soát trên biển và một đội ngũ phi công hải quân.
Thứ ba là máy bay ném bom hạng nặng, mặc dù lực lượng Không quân Liên Xô chưa bao giờ nổi tiếng về ném bom chiến lược trong Thế chiến thứ hai, nhưng trong suốt cuộc chiến, Liên Xô đã thử nghiệm rất nhiều với máy bay ném bom tầm xa.
Thời gian đầu của cuộc chiến, Liên Xô đã sử dụng Pe-8, một máy bay ném bom gần như tương đương với Avro Lancaster và Boeing B-17 của Mỹ. Pe-8 không bao giờ đạt được mức độ thành công như hai máy bay Mỹ, phần lớn là do các vấn đề về thiết kế.
Ngoài ra, Liên Xô cũng đã thử nghiệm một số dự án thực sự hoành tráng, bao gồm máy bay ném bom hạng nặng K-7, dòng máy bay TB-3, ANT-20, TB-6. Đặc biệt, máy bay ANT-20 có 8 động cơ và có thể chở 72 hành khách, ANT-26 là một biến thể của ANT-20, với 12 động cơ và lớn hơn đáng kể so với B-29 của Mỹ.
Tuy nhiên những chiếc máy bay quái vật này chỉ xuất hiện ở dạng nguyên mẫu, do Liên Xô lúc bấy giờ đang tập trung các nguồn lực cho lực lượng mặt đất chống quân Đức. Ngoài ra, những chiếc ANT-26 khổng lồ cũng sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng đối với các máy bay đánh chặn của Đức.
Không giống như các Đồng minh phương Tây, Liên Xô không muốn lãng phí nguồn lực cho một chiến dịch ném bom chiến lược kéo dài và tốn kém; họ cần phải đánh bại lục quân Đức trên chiến trường. Nếu Liên Xô chọn con đường ném bom chiến lược, họ có thể đã không chống lại được bước tiến của quân Đức.
Thứ tư là xe tăng siêu nặng Tu-42, các kỹ sư Liên Xô đã dự tính chế tạo xe tăng “siêu nặng”, loại xe có trọng lượng gấp 3, thậm chí 4 lần so với xe tăng chiến đấu tiêu chuẩn. Ấn tượng nhất trong số các thiết kế được trình lên Bộ Tổng tham mưu Liên Xô là T-42, một con quái vật nặng 100 tấn với ba tháp pháo và kíp lái từ 14-15 người.
T-42 chưa bao giờ được thử nghiệm, nhưng đã được giới quân sự Liên Xô xem xét nghiêm túc. Các dự án khác có phần thực tế hơn như T-35, T-100, SMK, KV-4 và KV-5, nhưng chỉ có T-35, loại xe tăng nặng 45 tấn với 5 tháp pháo, được đưa vào sản xuất. Và tất cả 61 chiếc T-35 đều bị mất trong giai đoạn mở đầu của Chiến dịch Barbarossa, thường là do lỗi cơ khí.
Giống như hầu hết các loại xe tăng siêu nặng khác, T-42 quá nặng, quá đắt và quá chậm để được sản xuất. Tuy nhiên, nếu Hồng quân quyết tâm tạo ra cỗ máy này, T-42 có thể sẽ làm sai lệch học thuyết thiết giáp của Liên Xô và chứng minh là vô dụng về mặt chiến thuật.
Cuối cùng là máy bay T-4, là bản sao trực tiếp của những chiếc B-29 Mỹ bị Liên Xô thu giữ được. T-4 là câu trả lời của Liên Xô cho B-70 Valkyrie của Mỹ. T-4 là một chiếc máy bay ném bom rất lớn, cực nhanh có khả năng bay ở độ cao lớn, máy bay đã được thử nghiệm và về nhiều mặt đã vượt quá giới hạn của ngành công nghiệp quốc phòng Liên Xô.
T-4 có thể đạt tốc độ Mach 3, với trần bay khoảng 24 km, T-4 giống B-70 về mặt hình dáng và khả năng. Tuy nhiên, do tổ chức lực lượng không quân ở Liên Xô khác với Mỹ, nên T-4 cũng được xem xét cho các nhiệm vụ chiến thuật, chẳng hạn như trinh sát và vận chuyển tên lửa chống hạm. Ý tưởng về một chiếc T-4 mang tên lửa chống hạm Kh-22 quả thực rất đáng sợ.
Tuy nhiên, trình độ công nghệ của Liên Xô lúc bấy giờ chưa thể đáp ứng nhiều yêu cầy kỹ thuật của máy bay. Hơn nữa, T-4 cũng gặp phải nhiều vấn đề về đánh chặn và chỉ có 35 chiếc T-4 sau này được chế tạo.
Nếu Liên Xô theo đuổi T-4, họ sẽ phải từ bỏ phần lớn phi đội không quân chiến thuật của mình. Tuy nhiên, Liên Xô cũng sẽ có một máy bay ném bom siêu thanh với tên lửa chống hạm, điều này sẽ khiến việc phòng thủ của các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ phức tạp hơn cả sự xuất hiện của Tu-22M, một máy bay ném bom tầm xa nhỏ hơn, ngắn hơn.
Việc sản xuất T-4 cũng có thể dẫn đến những thay đổi trong mua sắm quốc phòng của Mỹ, với khả năng tập trung nhiều hơn vào B-1A và lực lượng đánh chặn chiến lược. Mặc dù cực kỳ tốn kém để duy trì, nhưng vẫn có một số chiếc T-4 sống sót sau sự sụp đổ của Liên Xô để phục vụ trong Không quân Nga. Nguồn ảnh: Warhistory.
Cận cảnh sức mạnh của máy bay quân sự T-4 - huyền thoại một thời của Liên Xô. Nguồn: VK.