Những va chạm ban đầu
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, việc Mỹ sử dụng các máy bay của mình cũng như nhiều nước đồng minh khác để do thám không phận Liên Xô là chuyện thường xuyên xảy ra. Nhưng sau khi lực lượng phòng không Xôviết bắn rơi liên tiếp 2 chiếc máy bay do thám PBY Catalina và DC-3 của Thụy Điển vào ngày 16/6 và 13/7/1952, Mỹ và đồng minh buộc phải thay đổi chiến thuật.
Từ năm 1954, Mỹ bắt đầu sử dụng các khinh khí cầu không người lái để do thám lãnh thổ Liên Xô. Trong vòng 20 năm, lực lượng phòng không Xôviết đã ghi nhận hơn 4.000 chuyến bay khinh khí cầu thuộc loại này, nhưng chỉ bắn rơi được 473 chiếc.
Còn từ năm 1956, Moskva bắt đầu ghi nhận sự xuất hiện của loại máy bay do thám hiện đại U-2. Cho đến năm 1960, hàng chục chiếc U-2 đã tham gia khoảng 50 vụ xâm nhập không phận Liên Xô mà không bị trừng phạt. Vấn đề là những chiếc máy bay này hoạt động ở một độ cao mà các máy bay Xôviết không thể với tới - khoảng 20.000m. Những chiếc U-2 cứ ngang nhiên bay lượn trên không phận Moskva, Kiev và nhiều thành phố khác cho tới khi một chiếc đầu tiên bị bắn rơi vào ngày 1/5/1960 tại Sverdlovski.
Từ giữa những năm 60, Mỹ bắt đầu mở "mặt trận thứ hai" trong lĩnh vực do thám Liên Xô: thay vì chỉ bay lượn trên phần lục địa ở châu Âu, các máy bay do thám bắt đầu có mặt ở vùng Viễn Đông. Đáng chú ý có vụ một chiếc T-33 của Iran xâm phạm không phận Liên Xô vào ngày 28/11/1973.
Chiếc MiG-21SM do phi công Gennadi Eliseev điều khiển được lệnh cất cánh ngăn chặn. Khi đã cạn hết đạn, Eliseev quyết định lao tới sát, dùng cánh gạt vào máy bay đối phương, khiến cả hai cùng bốc cháy rơi xuống đất. Eliseev đã anh dũng hy sinh và được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Trong vụ này, lực lượng biên phòng đã bắt giữ được một tay đại tá Mỹ nhảy dù.
|
Chiếc KAL 902 hạ cánh xuống mặt băng của hồ Korpijarvi sau khi bị trúng 2 tên lửa của SU-15TM. |
Ngày 20/4/1978 đã diễn ra vụ "chạm mặt" đầu tiên của các phi công quân sự Liên Xô với các máy bay chở khách của Hàn Quốc vi phạm không phận. Sau khi xâm phạm không phận Liên Xô, một chiếc Boeing-707 của Hãng Hàng không Korean Air Lines (KAL) đã bị trúng 2 tên lửa được phóng từ một chiếc SU-15TM. Cho dù bị hư hại ở phần cánh, chiếc máy bay vẫn kịp hạ cánh xuống mặt băng của hồ Korpijarvi.
Tuy nhiên, thiệt hại lớn nhất không những về an ninh mà cả uy tín của Liên Xô lại liên quan đến vụ xâm nhập khác của một chiếc "máy bay chở khách" Hàn Quốc, về sau mới được biết đó là kết quả của một màn kịch hết sức tinh vi và xảo quyệt của tình báo Mỹ.
Vở kịch nhiều màn soạn sẵn
Ngày 31/8/1983, tất cả 269 hành khách của chiếc KAL 007 - 1 chiếc Boeing-747 với số hiệu trên máy bay 55719 thực hiện chuyến bay 1490 của Hãng Hàng không Hàn Quốc Korean Airlines đều tỏ ra bực mình khi chuyến bay của họ bị hoãn tới 40 phút. Các phát thanh viên tại sân bay thường xuyên trấn an hành khách rằng, chuyến bay lộ trình Anchorage-Seoul bị trì hoãn vì điều kiện thời tiết. Nhưng cuối cùng, hành khách vẫn thở phào nhẹ nhõm khi có lệnh cất cánh.
|
Chiếc Boeing 747 mang số hiệu KAL 007 của Korean Air Lines. |
Cũng chính vào thời điểm đó, từ sân bay quân sự Anchorage (Alaska) cũng có một chiếc Boeing-747 cất cánh. Chiếc máy bay này cũng có bề ngoài giống hệt chiếc chở 269 hành khách nói trên - trên thân cũng ghi số hiệu 55719 và các dòng chữ cho thấy nó cũng thuộc về Korean Airlines.
Chỉ có điều khác biệt là trên máy bay này không có một hành khách nào, chỉ có 18 thành viên phi hành đoàn (không có tiếp viên) và 10 người Mỹ bí ẩn. Tuy nhiên, cơ trưởng và cơ phó của chuyến bay - đều là những sĩ quan không quân dày dạn kinh nghiệm của không quân Hàn Quốc - đều biết rõ những người Mỹ trên là các nhân viên tình báo cùng nhiều thiết bị do thám hiện đại.
Nói tóm lại, chiếc Boeing-747 cất cánh từ sân bay quân sự chính là một máy bay do thám của Mỹ, ngụy trang dưới vỏ bọc một máy bay hàng không dân dụng của Korean Airlines.
Câu hỏi được đặt ra là: Vì sao chiếc máy bay dân dụng thật phải trì hoãn cất cánh tới 40 phút so với kế hoạch. Thật ra, "thủ thuật" này là để tạo ra sự đồng bộ về thời gian, sao cho khi chiếc máy bay gián điệp tới được vùng bờ biển Camchatka và Sakhalin, vệ tinh do thám Ferret-D của người Mỹ cũng vừa đúng theo vòng quay có mặt phía trên khu vực này. Vệ tinh này được triển khai để đảm trách hoạt động tình báo vô tuyến điện trên một dải tần số rộng mà các thiết bị vô tuyến điện tử của Liên Xô thường hoạt động.
Nói đơn giản hơn, Ferret-D có khả năng nghe trộm các thiết bị liên lạc vô tuyến điện tử của Liên Xô đang trực chiến tại Camchatka và Chukotka, xác định rõ vị trí và mức độ hoạt động của chúng. Nhưng để làm được nhiệm vụ này, Ferret-D cần đến sự phối hợp hỗ trợ của các nhân viên tình báo và trang thiết bị trên chiếc máy bay do thám. Tất cả những dữ liệu ghi nhận được đều được Ferret-D truyền ngay về cho các cơ quan mật vụ Mỹ.
Cần nói thêm là, vệ tinh này khi đó có thể kiểm soát được hoạt động của các phương tiện liên lạc vô tuyến trong hệ thống phòng không trên đảo Sakhalin và quần đảo Kuril. Ngoài ra, chiếc máy bay giả dạng dân sự của tình báo Mỹ trong suốt hành trình của mình không chỉ bị giám sát bởi các phương tiện kỹ thuật vô tuyến không lưu, mà còn hoàn toàn nằm trong tầm theo dõi của hệ thống định vị vô tuyến Loran-C của người Mỹ với khả năng trong bất kỳ lúc nào có thể xác định được tọa độ của máy bay với độ chính xác cao.
Tất nhiên, thực tế trên đã bị Washington tìm mọi cách che giấu. Chính quyền Mỹ tìm mọi cách chứng minh rằng, trường hợp trên chỉ là một sai lầm tình cờ, khi chiếc máy bay quy nạp nhầm dữ liệu tọa độ. Trong khi họ lại cố lờ đi một thực tế rõ ràng rằng, một sai lầm nghiêm trọng như vậy trong suốt 2 tiếng rưỡi chỉ có thể xảy ra với một điều kiện: ít nhất cả 7 điểm kiểm soát không lưu trong suốt hành trình trên đều cùng phạm một sai sót không nhận ra chiếc máy bay đã đi lệch hành trình.
|
Đường bay thực tế của chiếc KAL 007 lệnh so với đường bay được lên kế hoạch. |
Kết luận trên cũng được đưa ra từ một nghiên cứu của các chuyên gia độc lập của Cục Hàng không dân dụng quốc gia Anh, kết quả được công bố trên Đài Truyền hình Anh vào ngày 14/9/1983. Trong thông báo có khẳng định, bằng cách sử dụng máy tính điện tử và thiết bị tập luyện của loại máy bay Boeing-747, các chuyên gia Anh đã mô phỏng lại toàn bộ chuyến bay và xem xét toàn bộ 27 phương án về các điều kiện có thể xảy ra.
Cuối cùng họ đã chứng minh rằng, vụ bay lệch đường lớn như vậy chắc chắn không thể do lỗi của hệ thống dẫn đường cũng như nạp sai dữ liệu vào máy tính của máy bay. Tất cả mọi hoạt động của chiếc máy bay đều được điều khiển hết sức chi tiết - thể hiện ở các số liệu thay đổi về hướng bay, vận tốc và chiều cao.
Hơn nữa, tổ bay còn nhìn thấy tất cả những tín hiệu cảnh báo của các máy bay tiêm kích Liên Xô, sau đó tìm cách lẩn trốn họ dù hiểu rất rõ họ có nguy cơ bị bắn hạ. Chiếc máy bay gián điệp khi đó vẫn liên tục nhận được các tín hiệu chỉ đạo từ mặt đất. Người Mỹ hiểu rất rõ rằng, nếu làm theo lệnh hạ cánh xuống một sân bay của Liên Xô, âm mưu do thám của họ sẽ bị lật tẩy hoàn toàn với các trang bị tình báo đặc biệt của họ được lắp đặt trên đó.
Trong thời gian từ 31/8 đến 1/9, Mỹ đã triển khai cả một hệ thống các trang thiết bị do thám xung quanh khu vực Viễn Đông của Liên Xô: ngoài chiếc Boeing-747 và vệ tinh Ferret-D còn có một loạt các máy bay do thám khác (2 chiếc PG-135 lượn lờ dọc theo khu vực quần đảo Kuriu, 1 chiếc Orion ở biển Okhot phía bắc Sakhalin, 1 chiếc ở biển Nhật Bản, 1 chiếc E-3A có thể theo dõi toàn bộ hoạt động của chiếc máy bay vi phạm cũng như các máy bay tiêm kích của Liên Xô), một loạt tàu chiến của hải quân Mỹ, các trạm theo dõi trên mặt đất tại quần đảo Aleutian, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tất cả được tập trung nhằm thu nhận tối đa dữ liệu về hệ thống phòng không của Liên Xô tại khu vực Viễn Đông, đặc biệt tại những cơ sở chiến lược quan trọng nằm tại Camchatka và Sakhalin.
Theo mệnh lệnh từ Moscow, chiếc máy bay tiêm kích SU-15TM do Thiếu tá Osipovich điều khiển đã cất cánh từ sân bay Sokol, phóng 2 quả tên lửa trúng vào cánh trái và đuôi của chiếc máy bay gián điệp Boeing-747, khiến nó bốc cháy và rơi xuống biển.
Những con tin của chiến dịch tuyên truyền
Trở lại với chuyến bay 1490 của Hãng Korea Airlines, chỉ vài giờ sau khi bay, hành khách được thông báo máy bay buộc phải hạ cánh xuống sân bay quân sự Mỹ tại đảoOkinawa vì lý do kỹ thuật. Các hành khách (có tới 90% là du khách Nhật) đều tỏ ra thắc mắc khi cơ trưởng đội bay yêu cầu họ phải nộp lại cho các tiếp viên tất cả mọi phương tiện vô tuyến hay điện thoại vô tuyến có mang theo.
Sự bất an còn trở thành nỗi sợ hãi khi hành khách được thông báo phải mất từ 3 đến 4 ngày mới có thể khắc phục được lỗi kỹ thuật của máy bay. Trong thời gian này, tất cả bị nghiêm cấm rời khỏi khu vực khách sạn đã chuẩn bị sẵn cho họ. Việc ăn uống và các chương trình giải trí trên truyền hình sẽ do một công ty bảo hiểm cung cấp.
Ngay sau khi hạ cánh, trên máy bay xuất hiện các binh sĩ lính thủy đánh bộ Mỹ và một số cảnh sát Nhật Bản, trắng trợn kiểm tra người từng hành khách để tìm xem còn ai giấu máy thu thanh hay điện thoại vô tuyến nào không. Còn toàn bộ phi hành đoàn được bố trí ở trong một dãy nhà phụ nằm sát sở chỉ huy căn cứ quân sự Mỹ. Tất cả được thông báo không thể đặt chân tới Seoul nữa.
Đoạn kết
Giai đoạn hai của
chiến dịch tuyên truyền do Mỹ chuẩn bị từ trước bắt đầu được triển khai vào sáng ngày 1/9/1983, khi tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng hàng đầu của Mỹ theo lệnh đã đồng loạt chỉ trích gay gắt Liên Xô vì "bắn rơi chiếc máy bay dân dụng của Korean Airlines làm thiệt mạng gần 300 hành khách". Mức độ nhanh chóng đến bất ngờ của các thông tin chi tiết (chưa đầy 4 tiếng sau khi xảy ra vụ việc) đã cho thấy CIA đã chuẩn bị kỹ càng thế nào cho việc chuẩn bị trước và tuồn tài liệu cho báo chí.
Đến giữa ngày, tới lượt các quan chức hàng đầu của Washington - Tổng thống Reagan, Bộ trưởng Quốc phòng Weinberger, Ngoại trưởng Schultz - cũng thay nhau xuất hiện trên truyền hình và đài phát thanh để tố cáo hành động bắn rơi máy bay dân dụng của Liên Xô.
Còn về số phận của những công dân Nhật Bản, Hàn Quốc là con tin của chiến dịch do thám-tuyên truyền của Mỹ thì theo thông tin của tình báo Xôviết, tất cả các du khách Nhật (chiếm hơn 90% tổng số hành khách) được đền bù khoản tiền có tính chi phí đi đường cùng khoản đền bù thiệt hại khác. Họ đều phải ký vào cam kết không tiết lộ hành trình thực sự của chuyến bay, sau đó một tuần được bí mật đưa trở về nhà tại các hòn đảo khác nhau trên đất Nhật.
Còn các công dân Hàn Quốc được đưa về nước bằng các tàu chiến Mỹ, làm như vẻ họ đã được cứu sau khi chiếc máy bay rơi xuống biển Nhật Bản. Tất cả được đền bù bằng những khoản tiền hậu hĩnh và kèm theo đó cũng là những cam kết giữ bí mật.
Các thợ lặn Xôviết ngay sau đó cũng xác định được vị trí xác chiếc Boeing dưới đáy biển. Tất nhiên, họ chỉ tìm được một loạt các trang thiết bị do thám cùng với 28 thi thể thay vì hàng trăm xác chết như phương Tây rêu rao. Thiếu tá Osipovich được thăng quân hàm lên trung tá trước thời hạn và được tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ. Ông chỉ thực sự trút được gánh nặng của sự dằn vặt về "cái chết của gần 300 hành khách" sau khi biết được đó chỉ là một thủ đoạn tuyên truyền tinh xảo của CIA.