Mạc Đĩnh Chi (tuổi Canh Thìn, 1280-1350)
Mạc Đĩnh Chi tự Tiết Phu, quê Lũng Động, huyện Chí Linh, Hải Dương, là danh sĩ đời vua Trần Anh Tông.
Năm 1304, Mạc Đình Chi đỗ Trạng nguyên năm 24 tuổi. Vua thấy tướng mạo xấu xí có ý chê, ông dâng bài phú “Ngọc tinh liên” (Sen giếng ngọc) khiến vua khâm phục.
Ông làm quan trải ba triều Anh Tông, Minh Tông và Hiến Tông, thăng đến Tả bộc xạ Đại liên ban. Ông từng đi Trung Quốc hai lần, được các danh sĩ nước ngoài khen ngợi, kính nể.
Trương Định (tuổi Mậu Thìn, 1820-1864)
Trương Định tên thường gọi Trương Công Định, là vị anh hùng nổi tiếng trong cuộc kháng chiến thuở Pháp mới xâm lược Việt Nam. Ông sinh tại Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi.
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của Nguyễn Tri Phương, Trương Định đứng ra chiêu mộ dân nghèo khai hoang lập ấp. Ông được triều đình Huế phong chức Quản cơ, hàm lục phẩm. Từ đó, người đương thời gọi ông là Quản Định.
Ông chỉ huy nghĩa binh chống Pháp ở Nam kỳ giai đoạn 1859-1864. Không chấp nhận Hòa ước cho Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, ông được dân tôn là Bình Tây Đại nguyên soái.
|
Di tích Lăng mộ và Đền thờ Trương Định ở Gò Công - Tiền Giang. Ảnh: Du Lịch Miền Tây. |
Nguyễn Quang Bích (tuổi Nhâm Thìn, 1832-1890)
Nguyễn Quang Bích tự là Hàm Huy, hiệu Ngư Phong, là một chí sĩ cận đại của Việt Nam. Ông sinh tại làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, Thái Bình.
Năm 1869, Nguyễn Quang Bích đỗ Hoàng Giáp, rồi được bổ làm Tri phủ Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Ông từng giữ các chức vụ: Án sát Sơn Tây, Tế tửu Quốc tử giám, Án sát Bình Định, rồi làm Chánh sứ Sơn Phòng kiêm Tuần phủ Hưng Hóa.
Hưởng ứng phong trào Cần Vương, ông trở thành một trong những người lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Bắc Kỳ, được phong làm Lễ bộ Thượng thư, sung hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ.
Phan Đình Phùng (tuổi Giáp Thìn, 1844-1895)
Phan Đình Phùng có hiệu Châu Phong, tự Tôn Cát, là con cụ Phó bảng Phan Đình Tuyển, quê ở Đông Thái, La Sơn, Hà Tĩnh. Ông là sĩ phu nổi bật nhất tham gia vào các chiến dịch quân sự chống Pháp, là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) trong phong trào Cần Vương.
Phan Đình Phùng nổi tiếng với những ý chí và nguyên tắc sắt đá của bản thân – không chịu đầu hàng ngay cả khi quân Pháp quật mồ mả tổ tiên, bắt giữ và dọa giết gia đình. Ông mất vì bị thương trong chiến đấu khi bị quân Pháp bao vây.
Sau khi qua đời, ông được những người yêu nước tôn vinh như một vị anh hùng dân tộc.
|
Nhà bia tưởng niệm Phan Đình Phùng và nghĩa quân ở huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: Hoài Thương / Báo Biên Phòng. |
Nguyễn Thượng Hiền (tuổi Mậu Thìn, 1868-1925)
Nguyễn Thượng Hiền tự Đình Nam, hiệu Mai Sơn, quê Liên Bạt, Ứng Hòa, Hà Đông (nay là Hà Nội). Ông là một chí sĩ yêu nước nổi bật của Việt Nam giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ 19 và 20.
Năm 1885, ông đỗ cử nhân khi mới 17 tuổi, thi Hội đỗ đầu, đang chờ xướng danh thì kinh thành Huế thất thủ. Đến năm 1892, ông thi lại và đỗ Hoàng Giáp khi mới 24 tuổi. Tuy đỗ cao nhưng ông không ra làm quan mà về ẩn cư ở vùng núi Nưa, Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông giữ chức Toản tu Quốc sử, rồi làm Đốc học tỉnh Ninh Bình.
Nguyễn Phan Chánh (tuổi Nhâm Thìn, 1892-1984)
Nguyễn Phan Chánh sinh tại thôn Tiền Bạt, xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà nay là phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là danh họa, bậc thầy của hội họa lụa Việt Nam.
Những bức tranh lụa nổi tiếng của ông: Chơi ô ăn quan, Cô gái rửa rau trên cầu ao, Lên đồng, Bữa cơm, Những cô khâu đầm, Những người hát rong, Tiên Dung và Chử Đồng Tử…
Đánh giá về tài năng hội họa của Nguyễn Phan Chánh, họa sỹ Trịnh Cung cho rằng: “… là một người đã tạo ra một diện mạo tranh lụa Việt Nam không lẫn vào bất kỳ một phong cách nào đối với các nước có nền tranh lụa lớn nhất thế giới như Trung Hoa và Nhật Bản. Trong sáng tạo nghệ thuật, tạo dựng một phong cách riêng, hay hơn thế nữa là một trường phái, là điều hiếm hoi. Nguyễn Phan Chánh là một hiện tượng xuất chúng của hội họa Việt Nam cũng như Nguyễn Gia Trí với sơn mài”.
Trần Phú (tuổi Giáp Thìn, 1904–1931)
Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1/5/1904, quê quán thôn Tùng Ảnh, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Vào năm 1930, ông trở thành Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ có tên gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương) khi mới 26 tuổi.
Là người học trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, đồng chí Trần Phú đã dự thảo bản Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng, xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, ông có nhiều đóng góp to lớn về công tác xây dựng Đảng và tổ chức cách mạng của quần chúng.
Bị thực dân Pháp bắt giữ và đày ải, ông qua đời vào ngày 6/9/1931 tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn) ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ những người cùng chí hướng: "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu".
Lịch sử Việt Nam ghi nhận đồng chí Trần Phú là tấm gương sáng ngời về lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, bất khuất trước kẻ thù, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
|
Khu mộ cố Tổng bí thư Trần Phú ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. |
Nguyễn Lương Bằng (tuổi Giáp Thìn, 1904-1979)
Đồng chí Nguyễn Lương Bằng có bí danh Sao Đỏ, quê xã Thanh Tùng, huyện thanh Miện, Hải Dương. Ông là nhà cách mạng lỗi lạc của Việt Nam thế kỷ 20.
Trong 50 năm hoạt động cách mạng, Nguyễn Lương Bằng đã nhiều lần bị địch bắt. Tuy bị tù đày và tra tấn cực kỳ dã man nhưng ông vẫn chiến đấu kiên cường, giữ vững khí tiết người Cộng sản và bền bỉ hoạt động trong tổ chức bí mật ở nhà tù.
Bằng tấm gương anh dũng, bất khuất của mình, và bằng sự giúp đỡ, dìu dắt ân cần, ông đã góp phần bồi dưỡng nhiều chiến sỹ cách mạng ở nhà tù Sơn La.
Ông từng giữ các chức vụ: Phó Chủ tịch nước, Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Liên Xô, Tổng Thanh tra Chính phủ.
Đào Duy Anh (tuổi Giáp Thìn, 1904-1988)
Đào Duy Anh sinh tại Thanh Hóa, quê gốc ở làng Khúc Thủy, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông là nhà sử học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của Việt Nam.
Trong sự nghiệp của mình, Đào Duy Anh để lại nhiều công trình học thuật sáng giá về ngôn ngữ học, văn học, sử học, trong đó giá trị nhất là cuốn “Hán-Việt từ điển”.
Xuân Diệu (tuổi Bính Thìn, 1916-1985)
Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, quê gốc ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh tại quê mẹ ở xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông là nhà thơ lãng mạn trữ tình, một nhà phê bình tinh tế, một nhà lý luận văn học độc đáo.
Xuân Diệu nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió.” Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Cách mạng Tháng Tám đã mở ra bước ngoặt lớn cho đời thơ Xuân Diệu. Một loạt tập thơ chan chứa tình đời, tình người ra đời như: “Trường ca” (1945), “Ngọn quốc kỳ” (1945), “Dưới sao vàng” (1949), “Riêng chung” (1960)...
Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Những năm Thìn đáng nhớ trong lịch sử dân tộc
Mậu Thìn (248): Khởi nghĩa Bà Triệu
Mậu Thìn (548): Triệu Quang Phục xưng vương
Mậu Thìn (968): Nước Đại Cồ Việt ra đời
Canh Thìn (980): Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế
Bính Thìn (1076): Bài thơ "Nam Quốc Sơn Hà" ra đời trong cuộc kháng chiến chống Tống
Canh Thìn (1400): Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ
Nhâm Thìn (1592): Trịnh Tùng đánh bại nhà Mạc
Giáp Thìn (1784): Nguyễn Huệ đại phá quân Xiêm xâm lược
Canh Thìn (1940): Khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ
Nhâm Thìn (1952): Thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc
Giáp Thìn (1964): Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ
Bính Thìn (1976): Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất
|