Tiểu đêm được Hiệp hội Quốc tế về Tiểu tiện Không kiểm soát (ICS) định nghĩa là thức dậy vào ban đêm để đi tiểu nhiều hơn một lần. Tiểu đêm không chỉ làm giảm chất lượng giấc ngủ, ảnh hưởng đến sinh hoạt, nghỉ ngơi bình thường mà còn tăng khả năng bị té ngã khi đi vệ sinh vào ban đêm. Nếu để lâu không chữa trị sẽ dễ khiến người bệnh bị trầm cảm.
Theo các nghiên cứu trước đây, có thể thấy rằng dù ở nam hay nữ thì tỷ lệ mắc chứng tiểu đêm tăng dần theo độ tuổi. Các yếu tố nguy cơ gây tiểu đêm bao gồm béo phì, tăng huyết áp, dùng thuốc lợi tiểu, ngủ ngáy, tăng sản tuyến tiền liệt, ung thư tuyến tiền liệt, sử dụng thuốc chống trầm cảm, bệnh mạch vành, suy tim sung huyết và tiểu đường.
Tiểu đêm cũng có thể là biểu hiệm của các bệnh lâm sàng cơ bản, chẳng hạn như bệnh thận mãn tính, tiểu đường hoặc suy tim sung huyết. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chứng tiểu đêm có liên quan đến việc tăng tỷ lệ tử vong.
|
Ảnh minh họa. |
Nguyên nhân của chứng tiểu đêm thường có thể do nhiều nguyên nhân cùng lúc, ở phụ nữ, những nguyên nhân phổ biến của chứng tiểu đêm bao gồm bàng quang thể tích nhỏ, bàng quang hoạt động quá mức do đột quỵ, bệnh Parkinson, bệnh đa xơ cứng, thoát vị đĩa đệm đốt sống, hẹp khoang cột sống hoặc bệnh tiểu đường. Cũng có thể là do nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) như viêm bàng quang, viêm bàng quang kẽ do bàng quang hoạt động quá mức.
Các nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng những bệnh nhân trẻ (nữ <65 tuổi) có nhiều khả năng là thể tích bàng quang nhỏ còn những bệnh nhân lớn tuổi có nhiều khả năng là bị đa niệu.
Việc điều trị chứng tiểu đêm của phụ nữ trước hết phải xét trên tiền sử bệnh và khám sức khỏe chi tiết để đánh giá các bệnh lý có thể gây ra chứng tiểu đêm như bệnh tim mạch, tiểu đường, sa bàng quang, tử cung… cũng sẽ xét nghiệm nước tiểu để đánh giá xem bệnh nhân có bị tiểu đêm do viêm nhiễm, hay không đồng thời yêu cầu bệnh nhân điền vào nhật ký mỗi ngày để nắm được tình trạng.
Điều trị chứng tiểu đêm không chỉ là chữa trị mà còn phải giáo dục sức khỏe người bệnh, tránh bổ sung nhiều nước và đồ uống kích thích trước khi đi ngủ như cà phê, trà, rượu. Điều chỉnh thời gian sử dụng thuốc lợi tiểu và cải thiện môi trường ngủ. Nếu điều trị theo phác đồ này không thể cải thiện tình trạng tiểu đêm của bệnh nhân thì nên điều trị bằng thuốc theo đúng nguyên nhân.
Tiểu đêm do bàng quang hoạt động quá mức có thể được điều trị bằng thuốc kháng tiết ức chế thần kinh phó giao cảm (thuốc antimuscarinic) để cải thiện tình trạng đi tiểu nhiều lần và tiểu đêm, nhưng hãy chú ý đến các tác dụng phụ có thể xảy ra của thuốc, bao gồm: khô miệng, táo bón, rối loạn chức năng nhận thức, nước tiểu và Sớm.
Về mặt lâm sàng, siêu âm soi bàng quang có thể được sử dụng để phát hiện lượng nước tiểu còn sót lại để theo dõi. Ngoài ra, kết quả của các nghiên cứu lâm sàng gần đây cho thấy hiệu quả điều trị của một loại thuốc kích thích thần kinh giao cảm mới (β3-adrenoceptor agonist) tương đương với thuốc kháng cholinergic nhưng ít tác dụng phụ hơn.
|
Ảnh minh họa. |
Bệnh nhân bị chứng đa niệu về đêm cần được điều trị bằng desmopressin (ddAVP), có cơ chế điều trị tương tự như hormone chống bài niệu ở người, có thể làm giảm sản xuất nước tiểu về đêm. Bệnh nhân dùng hormone chống bài niệu này giữ nước trong cơ thể ban đêm mà không bài tiết ra ngoài, chứng tiểu đêm cũng giảm.
Tuy nhiên, những bệnh nhân bị bệnh tim xung huyết cần được theo dõi cẩn thận vì nước không được đào thải ra khỏi cơ thể sẽ làm tăng gánh nặng cho tim và tăng khả năng bị suy tim, phổi. Do đó, cần theo dõi hàm lượng natri trong máu để ngăn ngừa tình trạng mất cân bằng điện giải. Một số bệnh nhân có thể có các tác dụng phụ như hạ natri máu và nhức đầu và mệt mỏi.
Nhìn chung, trước khi điều trị bệnh tiểu đêm, chị em cần cẩn thận hết mức, tìm hiểu rõ nguyên nhân từ đó được kê đơn thuốc đúng nguyên nhân thì mới giải quyết được vấn đề. Mục đích điều trị là nâng cao chất lượng cuộc sống hàng ngày, cố gắng không gây ra tác dụng phụ và biến chứng của thuốc do điều trị chứng tiểu đêm. Nếu chứng tiểu đêm không cải thiện sau khi điều trị bằng thuốc, có thể cần làm thêm các xét nghiệm niệu động học để hiểu thêm về các nguyên nhân nhằm đưa ra phương pháp điều trị chính xác hơn.