Ung thư vú di căn não chiếm 14 - 20% tổng số các bệnh có di căn não, đứng hàng thứ hai sau di căn não ung thư phổi. Ước tính tỷ lệ di căn não của ung thư vú từ 5,9 - 16% bệnh nhân ung thư vú, tăng lên khi mổ tử thi 18 - 30%. Trung bình mỗi năm có từ 97.800 - 170.000 bệnh nhân di căn não mới. Nhờ cộng hưởng từ phát hiện các tổn thương di căn nhỏ, điều trị toàn thân tăng lên và bệnh nhân ung thư sống lâu hơn nên số lượng di căn não tăng lên.
Di căn não thường gặp nhiều hơn ở phụ nữ tiền mãn kinh. Các ổ di căn thường nằm ở ranh giới giữa chất trắng và chất xám. Di căn não có xu hướng hay gặp ở vị trí này bởi vì các mạch máu giảm kích thước, điều này tạo thành một điểm dừng của các tế bào ác tính. Di căn não cũng thường gặp ở các xoang, điểm gấp khúc của các mạch máu. Sự phân bố của các di căn não thường liên quan đến sự cấp máu của từng vùng. Khoảng 80% di căn não nằm ở bán cầu não, 15% ở tiểu não và 5% ở thân não.
Ung thư vú di căn não thường là một ổ đơn độc, tương phản với ung thư hắc tố và ung thư phổi, thường có xu hướng di căn não nhiều ổ. Không có sự liên quan giữa kích thước và vị trí u nguyên phát hoặc số lượng hạch di căn và di căn não. Dấu hiệu di căn não ở bệnh nhân ung thư vú thường có dấu hiệu thần kinh bất thường do khối u di căn choán chỗ trong hộp sọ, gây ra phù não, đôi khi tắc các não thất dẫn tới đột quỵ. Người bệnh cũng có dấu hiệu giống u của não như đau đầu, rối loạn chức năng, giảm tri giác hoặc liệt.
Chẩn đoán có ý nghĩa quan trọng phân biệt với các u nguyên phát của não và tổn thương di căn đơn độc hoặc di căn thể đặc và các di căn nhiều ổ bởi thái độ điều trị khác nhau. Điều trị di căn não bằng điều trị triệu chứng thuốc hoặc điều trị đặc hiệu: Phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, nội tiết. Thông thường thời gian sống thêm trung bình của các bệnh nhân di căn não không điều trị khoảng 1 tháng, điều trị corticoid 2 tháng, tia xạ toàn bộ não 3 - 6 tháng. Bệnh nhân có ổ di căn đơn độc và tổn thương giới hạn được phẫu thuật và tia xạ toàn bộ não 10 - 16 tháng.
Ung thư vú di căn não nói chung có tiên lượng khá hơn các di căn do các bệnh khác. Các yếu tố tiên lượng khả quan bao gồm: tình trạng bệnh, tuổi trẻ, thể trạng chung tốt, thời gian dài có di căn có khả năng phẫu thuật, có thể thụ cảm nội tiết dương tính.