Những cách tu niệm Phật như trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật… đã có từ thời Phật Thích Ca, do chính Ngài chỉ dạy.
Ngày nay, ngoài những người tu niệm Phật Thích Ca thì phần đông các Phật tử tu theo Tịnh Độ tông niệm Phật A Di Đà. Dù niệm Phật A Di Đà, khác về danh hiệu Phật nhưng cách thức (trì danh, quán tượng, quán tưởng…) vẫn không thay đổi. Hãy tìm hiểu pháp thoại dưới đây để thấy rằng pháp môn Niệm Phật (Nam truyền hay Bắc truyền) đều có tính nguyên thủy, được hậu thế gìn giữ hay kế thừa và phát huy với nền tảng vững chắc, rõ ràng.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hãy tu hành một pháp, hãy truyền bá rộng rãi một pháp. Tu hành và truyền bá rộng rãi một pháp rồi sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được hưởng vị cam-lồ, đến được chỗ vô vi, sẽ thành tựu thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Thế nào là một pháp? Nghĩa là niệm Phật.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Thế nào là tu hành niệm Phật sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được hưởng vị cam lồ, đến được chỗ vô vi, sẽ thành tựu thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn?
…
- Nếu có Tỳ-kheo chính thân, chính ý, ngồi kiết-già buộc niệm ở trước, không có một ý tưởng nào khác, một lòng niệm Phật, quán hình tướng Như Lai chưa từng rời mắt, đã chẳng rời mắt, liền niệm công đức của Như Lai.
Thể của Như Lai bằng kim cương, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, giữa chúng dũng kiện. Dung mạo Như Lai đoan chính vô song, nhìn không chán mắt. Giới đức thành tựu giống như kim cương không thể phá hủy, thanh tịnh không tì vết cũng như lưu ly. Tam muội của Như Lai chưa hề sút giảm, dừng lặng vĩnh viễn không có niệm khác; các tình cảm kiêu mạn, quật cường, các tâm ý dục, tưởng sân, ngu hoặc, do dự, buộc kết đều trừ sạch cả.
Huệ của thân Như Lai, trí không bờ mé, không bị chướng ngại. Thân của Như Lai do giải thoát thành tựu, không còn sanh lại để phải nói rằng: ‘Ta sẽ đọa vào sanh tử nữa’. Thân Như Lai là độ tri kiến thành tựu, biết căn tánh người khác nên độ hay không nên độ, biết họ chết đây sanh kia, qua lại xoay vần bên bờ sanh tử, người có giải thoát, người không giải thoát đều biết hết cả.
Ðó là tu hành niệm Phật, sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được vị cam-lồ, đến được chỗ vô vi, sẽ thành tựu thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Thế nên, các Tỳ-kheo, thường nên tư duy, chẳng lìa niệm Phật thì sẽ được các công đức lành này. Như vậy, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo, nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Quảng diễn, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.43)
Thế Tôn đã xác quyết, chỉ một pháp niệm Phật này, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Rõ ràng, “ngồi kiết-già buộc niệm ở trước, không có một ý tưởng nào khác, một lòng niệm Phật, quán hình tướng Như Lai, niệm công đức của Như Lai” chẳng khác với trì danh, quán tượng và quán tưởng niệm Phật.
Niệm là tâm nhớ nghĩ (miệng niệm) Như Lai. Quán tượng là tâm quán thấy tướng tốt của Như Lai. Quán tưởng là tâm tưởng niệm các công đức của Như Lai. Từ chuyên tâm niệm Phật (Chỉ) đến (Quán) về ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười trí lực, mười danh hiệu, bốn tâm vô lượng, bốn đức vô úy … của Như Lai, chúng ta thấy rõ Chỉ và Quán luôn đầy đủ trong pháp môn này. Nên tu tập niệm Phật sung mãn “sẽ thành tựu thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn” là một sự thật mà các bậc Thánh đã trải nghiệm và kinh qua.
Pháp môn Niệm Phật đã được Phật Thích Ca thiết lập trên nền tảng Chỉ-Quán (định-tuệ). Thiết nghĩ, thành tựu giải thoát Niết-bàn hay vãng sanh khác nhau chăng cũng chỉ về ngôn từ. Do vậy, người niệm Phật ngày nay (dù niệm Phật nào) cũng nên tỉnh giác trước sự mời gọi dễ tu, dễ chứng để không rơi vào tự huyễn hoặc mình (quá dựa vào tha lực mà không cố gắng tự lực). Niệm Phật mà không nhất tâm, công phu chưa chứng đạt định và tuệ (nhất tâm bất loạn từ một cho đến bảy ngày, theo kinh A Di Đà) thì khó mà thành tựu giải thoát, vãng sanh; đây chính là điều người tu niệm Phật ngày nay cần lưu tâm vậy.