Đầu tháng 12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon đình chỉ ký Hiệp định Paris, đe dọa dùng bom hủy diệt Hà Nội, để ép phái đoàn đàm phán của ta vào thế yếu, buộc phải chấp nhận những điều khoản có lợi cho Mỹ tại Hội nghị Paris.Từ tối 18 đến 29/12/1972, Mỹ mở chiến dịch Linebacker II, huy động 193 máy bay ném bom chiến lược B52, hơn 1.077 máy bay chiến thuật các loại, 50 máy bay tiếp nhiên liệu trên không KC-135, sáu tàu sân bay và các thiết bị tác chiến hiện đại nhất.Liên tục trong 12 ngày đêm, B-52 Mỹ đã thả hơn 20.000 tấn bom đạn các loại. Đây là những trận ném bom ác liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng như trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Chiến trường Việt Nam là lần đầu tiên và duy nhất chứng kiến sự thất bại của B-52. Quân và dân Việt Nam đã bắn rơi tổng cộng 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc B52.Peter MacDonald, một sĩ quan trong Quân đội Anh, trong cuốn sách “Giáp: Chiến binh ở Việt Nam” đã nói rằng, hệ thống phòng không mà miền Bắc Việt Nam tạo ra rất phức tạp và nguy hại. Các chuyên gia Mỹ đánh giá hệ thống phòng không này có thể so sánh với mạng lưới phòng không hiện đại của NATO để phòng thủ Tây Âu.Cốt lõi của hệ thống phòng không này là tên lửa S-75 Dvina hay SAM-2 và máy bay chiến đấu MiG-21, khoảng 4.000 khẩu pháo từ 12,7mm đến 100mm, trong đó có 2.000 khẩu được triển khai để bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.Tại Việt Nam, S-75 Dvina được gọi là SAM-2, là tên viết tắt của “Tên lửa đất đối không loại 2”, là hệ thống phòng không tầm cao do Liên Xô thiết kế, được chế tạo xung quanh tên lửa đất đối không với chức năng dẫn đường chỉ huy, được triển khai đầu tiên vào năm 1957, đã trở thành một trong những hệ thống phòng không được triển khai rộng rãi nhất trong lịch sử.SAM-2 có khối lượng 2,3 tấn, dài 10,6m, đường kính 0,7m, mang đầu đạn Frag-HE nặng 200kg. S-75 sử dụng tên lửa hai giai đoạn, bao gồm phần đầu tăng cường nhiên liệu rắn và phần trên chứa nhiên liệu lỏng. Phạm vi hoạt động của Dvina là 45 km (28 mi), độ cao bay 25.000m, tốc độ tối đa Mach 3,5.SAM-2 được trang bị cho lực lượng phòng không Việt Nam từ đầu năm 1965 và trở thành một trong những vũ khí chủ lực bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu trọng yếu khác trước máy bay Mỹ. Cải tiến đáng kể nhất của hệ thống SAM-2 của Việt Nam là cải tiến kỹ thuật có thể đối phó với cả tác động gây nhiễu thụ động và điện từ của không quân Mỹ.B-52 là máy bay ném bom chiến lược có khả năng gây nhiễu điện từ cực mạnh. Một tốp 3 chiếc B-52 có 45 thiết bị gây nhiễu, khiến radar của đối phương hoàn toàn vô dụng. Hộ tống B-52 là một đội hình máy bay tác chiến điện tử, làm tê liệt hệ thống radar của đối phương. Hầu hết các đài ra đa của Việt Nam khi đó đều bị nhiễu nặng, không phát hiện được mục tiêu.Trên thực tế, tên lửa SAM-2 có thể tiêu diệt mục tiêu ở độ cao trên 24.000 mét trong khi trần phục vụ của B-52 chỉ 17.000 mét, khi ném bom chỉ 10.000 mét nên SAM-2 có thể vươn tới B-52. Tuy nhiên, trước khả năng gây nhiễu cực mạnh của máy bay Mỹ, tên lửa SAM-2 gần như vô dụng.Quân chủng Phòng không Việt Nam ngay lập tức thành lập Đội Trinh sát gây nhiễu để tìm hiểu các tính năng kỹ thuật và chiến thuật gây nhiễu của địch, phát hiện được các thiết bị gây nhiễu của B-52 chỉ có thiết bị gây nhiễu ALR-18 hoạt động ở bước sóng 3 cm, để đối phó với radar của MiG-21, ăng ten gây nhiễu hướng về phía đuôi, do đó, không ảnh hưởng đến radar mặt đất.Khám phá này vô cùng quý giá, lúc này Phòng không Việt Nam được trang bị một loại radar làm việc ở bước sóng 3cm là đài radar K8-60 dùng cho pháo binh 57mm do Trung Quốc viện trợ. Phòng không Việt Nam đã bí mật ứng dụng dễ dàng hạ gục B-52.Ngày nay, SAM-2 đã lỗi thời nhưng vào thời điểm đó, nó vẫn là một vũ khí đáng gờm. Có tính cơ động cao, bệ phóng có thể di chuyển nửa giờ sau khi bắn và định vị lại sau 1 giờ.Tính linh hoạt này khiến nó rất khó bị phát hiện. Một mẹo nhỏ để quân đội Việt Nam giành lợi thế là các tay súng đã phóng tên lửa không điều khiển và bật radar điều khiển ở pha cuối, đủ thời gian để tên lửa khóa mục tiêu nhưng không đủ để máy bay Mỹ đánh chặn.Một thủ thuật khác là phóng lần lượt ít nhất hai tên lửa S-75. Phát súng đầu tiên có độ cao, buộc máy bay Mỹ phải sử dụng thiết bị điện tử để né chúng. Trong khi hệ thống phòng thủ bận rộn, tên lửa thứ hai đã được bắn dọc theo đường đi thứ nhất cho đến khi mục tiêu bị khóa và tiêu diệt. Sau hơn 40 năm, những bí mật đã được hé lộ, và đó là câu chuyện về S-75 Dvina của Việt Nam. Nguồn ảnh: TH.
Đầu tháng 12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon đình chỉ ký Hiệp định Paris, đe dọa dùng bom hủy diệt Hà Nội, để ép phái đoàn đàm phán của ta vào thế yếu, buộc phải chấp nhận những điều khoản có lợi cho Mỹ tại Hội nghị Paris.
Từ tối 18 đến 29/12/1972, Mỹ mở chiến dịch Linebacker II, huy động 193 máy bay ném bom chiến lược B52, hơn 1.077 máy bay chiến thuật các loại, 50 máy bay tiếp nhiên liệu trên không KC-135, sáu tàu sân bay và các thiết bị tác chiến hiện đại nhất.
Liên tục trong 12 ngày đêm, B-52 Mỹ đã thả hơn 20.000 tấn bom đạn các loại. Đây là những trận ném bom ác liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng như trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Chiến trường Việt Nam là lần đầu tiên và duy nhất chứng kiến sự thất bại của B-52. Quân và dân Việt Nam đã bắn rơi tổng cộng 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc B52.
Peter MacDonald, một sĩ quan trong Quân đội Anh, trong cuốn sách “Giáp: Chiến binh ở Việt Nam” đã nói rằng, hệ thống phòng không mà miền Bắc Việt Nam tạo ra rất phức tạp và nguy hại. Các chuyên gia Mỹ đánh giá hệ thống phòng không này có thể so sánh với mạng lưới phòng không hiện đại của NATO để phòng thủ Tây Âu.
Cốt lõi của hệ thống phòng không này là tên lửa S-75 Dvina hay SAM-2 và máy bay chiến đấu MiG-21, khoảng 4.000 khẩu pháo từ 12,7mm đến 100mm, trong đó có 2.000 khẩu được triển khai để bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
Tại Việt Nam, S-75 Dvina được gọi là SAM-2, là tên viết tắt của “Tên lửa đất đối không loại 2”, là hệ thống phòng không tầm cao do Liên Xô thiết kế, được chế tạo xung quanh tên lửa đất đối không với chức năng dẫn đường chỉ huy, được triển khai đầu tiên vào năm 1957, đã trở thành một trong những hệ thống phòng không được triển khai rộng rãi nhất trong lịch sử.
SAM-2 có khối lượng 2,3 tấn, dài 10,6m, đường kính 0,7m, mang đầu đạn Frag-HE nặng 200kg. S-75 sử dụng tên lửa hai giai đoạn, bao gồm phần đầu tăng cường nhiên liệu rắn và phần trên chứa nhiên liệu lỏng. Phạm vi hoạt động của Dvina là 45 km (28 mi), độ cao bay 25.000m, tốc độ tối đa Mach 3,5.
SAM-2 được trang bị cho lực lượng phòng không Việt Nam từ đầu năm 1965 và trở thành một trong những vũ khí chủ lực bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu trọng yếu khác trước máy bay Mỹ. Cải tiến đáng kể nhất của hệ thống SAM-2 của Việt Nam là cải tiến kỹ thuật có thể đối phó với cả tác động gây nhiễu thụ động và điện từ của không quân Mỹ.
B-52 là máy bay ném bom chiến lược có khả năng gây nhiễu điện từ cực mạnh. Một tốp 3 chiếc B-52 có 45 thiết bị gây nhiễu, khiến radar của đối phương hoàn toàn vô dụng. Hộ tống B-52 là một đội hình máy bay tác chiến điện tử, làm tê liệt hệ thống radar của đối phương. Hầu hết các đài ra đa của Việt Nam khi đó đều bị nhiễu nặng, không phát hiện được mục tiêu.
Trên thực tế, tên lửa SAM-2 có thể tiêu diệt mục tiêu ở độ cao trên 24.000 mét trong khi trần phục vụ của B-52 chỉ 17.000 mét, khi ném bom chỉ 10.000 mét nên SAM-2 có thể vươn tới B-52. Tuy nhiên, trước khả năng gây nhiễu cực mạnh của máy bay Mỹ, tên lửa SAM-2 gần như vô dụng.
Quân chủng Phòng không Việt Nam ngay lập tức thành lập Đội Trinh sát gây nhiễu để tìm hiểu các tính năng kỹ thuật và chiến thuật gây nhiễu của địch, phát hiện được các thiết bị gây nhiễu của B-52 chỉ có thiết bị gây nhiễu ALR-18 hoạt động ở bước sóng 3 cm, để đối phó với radar của MiG-21, ăng ten gây nhiễu hướng về phía đuôi, do đó, không ảnh hưởng đến radar mặt đất.
Khám phá này vô cùng quý giá, lúc này Phòng không Việt Nam được trang bị một loại radar làm việc ở bước sóng 3cm là đài radar K8-60 dùng cho pháo binh 57mm do Trung Quốc viện trợ. Phòng không Việt Nam đã bí mật ứng dụng dễ dàng hạ gục B-52.
Ngày nay, SAM-2 đã lỗi thời nhưng vào thời điểm đó, nó vẫn là một vũ khí đáng gờm. Có tính cơ động cao, bệ phóng có thể di chuyển nửa giờ sau khi bắn và định vị lại sau 1 giờ.
Tính linh hoạt này khiến nó rất khó bị phát hiện. Một mẹo nhỏ để quân đội Việt Nam giành lợi thế là các tay súng đã phóng tên lửa không điều khiển và bật radar điều khiển ở pha cuối, đủ thời gian để tên lửa khóa mục tiêu nhưng không đủ để máy bay Mỹ đánh chặn.
Một thủ thuật khác là phóng lần lượt ít nhất hai tên lửa S-75. Phát súng đầu tiên có độ cao, buộc máy bay Mỹ phải sử dụng thiết bị điện tử để né chúng. Trong khi hệ thống phòng thủ bận rộn, tên lửa thứ hai đã được bắn dọc theo đường đi thứ nhất cho đến khi mục tiêu bị khóa và tiêu diệt. Sau hơn 40 năm, những bí mật đã được hé lộ, và đó là câu chuyện về S-75 Dvina của Việt Nam. Nguồn ảnh: TH.