Thiếu folat có thể gây khuyết tật ống thần kinh
Nhu cầu sắt trong thời kỳ mang thai tăng cao, đặc biệt là ở nửa sau thai kỳ. Nhu cầu sắt khuyến nghị cho phụ nữ có thai là khoảng 60mg/ngày. Để đáp ứng nhu cầu này, khẩu phần ăn của bà mẹ phải chú trọng tới các thực phẩm giàu sắt và phải uống thêm viên sắt hằng ngày. Sắt trong thực phẩm ở 2 loại, dạng sắt heme hoặc không heme.
Dạng heme có trong thức ăn nguồn gốc động vật, trừ trứng (như phoscidin) và sữa (như lactoferrin). Sắt heme có thể dễ dàng được hấp thu ở ruột, trong khi hấp thu sắt không heme phụ thuộc vào sự có mặt của một số chất làm tăng hay cản trở hấp thu sắt.
Vitamin C (axit ascorbic), protit động vật và các axit hữu cơ trong hoa quả và rau có tác dụng làm tăng khả năng hấp thu chất sắt không heme. Các chất ức chế hấp thu sắt thường có trong các thực phẩm nguồn gốc thực vật, như Phytate ở trong gạo và các loại ngũ cốc. Chất ức chế khác là Tanin trong một số loại rau, trà và cà phê.
Vì vậy, hàm lượng sắt của thực phẩm không nhất thiết phản ánh sự đầy đủ sắt trong chế độ ăn. Nhu cầu sắt phụ thuộc vào lượng sắt có thể hấp thu được trong khẩu phần. Cùng với sắt axit folic hay còn gọi là Folat (dạng có trong các thực phẩm) cũng rất quan trọng đối với phụ nữ có thai. Folat là thuật ngữ khoa học dùng chỉ một loại vitamin thuộc nhóm B, còn được gọi là vitamin B9.
Thiếu folat trong khẩu phần đầu tiên làm giảm nồng độ folat huyết tương sau đó giảm nồng độ folat trong hồng cầu, tăng mật độ homocysteine và cuối cùng xuất hiện các nguyên hồng cầu khổng lồ trong tủy xương và dẫn tới phân chia nhanh chóng các tế bào khác. Khi tình trạng thiếu folat tiến triển thêm sẽ dẫn tới xuất hiện đại hồng cầu hay nguyên hồng cầu khổng lồ.
Biểu hiện lâm sàng của thiếu folat gồm mệt mỏi, khó tập trung, cáu gắt, đau đầu, hồi hộp và thở ngắn, thở gấp khi bệnh tiến triển nặng hơn và thường có các đặc điểm giống với tình trạng thiếu vitmain B12. Thiếu folat giai đoạn sớm sau thụ thai có thể gây ra các khuyết tật ống thần kinh ngay từ thời kỳ bào thai. Nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng liều bổ sung folat khi mang thai (khoảng 400 - 600mcg/ngày) có thể ngăn ngừa được các khuyết tật này.
|
Ảnh minh họa. |
Mối quan hệ giữa canxi và tiền sản giật
Gần đây, nhiều nghiên cứu chú ý tới vai trò của canxi và vitamin D đối với sức khoẻ của người mẹ và sự phát triển của thai nhi. Một số nghiên cứu cho thấy, thiếu canxi có liên quan đến tiền sản giật và hiện tượng tăng huyết áp trong thai kỳ. Ngoài ra, hiện tượng thiếu canxi, vitamin D kéo dài suốt thai kỳ làm giảm chất lượng khung xương của mẹ, gây nên các hiện tượng đau, nhức các khớp xương, giảm mật độ xương, xốp xương. Bên cạnh ảnh hưởng tới sức khoẻ của mẹ, thiếu hụt canxi và vitamin D còn ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ ngay từ trong bào thai.
Nghiên cứu trên thế giới cho thấy, ở những bà mẹ có khẩu phần canxi dưới 600mg/ngày và hàm lượng 25 (OH) D < 50nmol/l thì chiều dài và cân nặng con thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với con của các bà mẹ có khẩu phần canxi tốt hơn. Một nghiên cứu về bổ sung canxi trong thời gian mang thai cũng cho hiệu quả cải thiện 0,4cm chiều dài trẻ ở nhóm bà mẹ can thiệp so với nhóm đối chứng.
Để đáp ứng đủ khẩu phần canxi theo như khuyến nghị, bà mẹ cần phải tăng cường sử dụng các thực phẩm giàu nguồn gốc động vật giàu canxi như thịt, tôm, cua, cá. Sử dụng kết hợp với các thực phẩm giàu canxi nguồn gốc thực vật như đậu nành, vừng, các loại rau như rau ngót, rau muống, rau đay, rau dền, mùng tơi... Bên cạnh đó, bà mẹ nên tránh thói quen che kín cơ thể khi ra ngoài, thay vào đó là để một phần cơ thể tiếp xúc với ánh nắng mặt trời sẽ giúp tăng cường quá trình chuyển hóa từ tiền vitamin D thành vitamin D.