Huy động vốn tại dự án khu nhà ở đô thị Việt Thành: Dấu hiệu lừa đảo rõ ràng?

Google News

Luật sư Hoàng Tùng cho rằng, Công ty tư vấn Việt Thành không có tư cách huy động vốn khi không phải là chủ đầu tư dự án khu nhà ở đô thị Việt Thành. Do vậy, hành vi của ông Thành là có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Như Báo Tri thức và Cuộc sống đã phản ánh, sự việc ông Lê Tất Thành - Giám đốc Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng và thương mại Việt Thành (gọi tắt là Công ty tư vấn Việt Thành) bị khách hàng tố lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại dự án khu nhà ở đô thị Việt Thành (xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) đang gây xôn xao dư luận.
Huy dong von tai du an khu nha o do thi Viet Thanh: Dau hieu lua dao ro rang?
Vị trí dự án khu nhà ở đô thị Việt Thành.
Về sự việc này, trao đổi với PV luật sư Hoàng Tùng - Trưởng văn phòng luật sư Trung Hòa (Đoàn luật sư TP.Hà Nội) cho biết tại Khoản 5 Điều 8 của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định rất rõ ràng một trong các hành vi bị cấm là: Huy động, chiếm dụng vốn trái phép; sử dụng vốn huy động của tổ chức, cá nhân và tiền ứng trước của bên mua, bên thuê, bên thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai không đúng mục đích theo cam kết.
Ngoài ra, tại Khoản 6 Điều 26 của Luật Nhà ở 2014 quy định chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở thương mại có trách nhiệm: Thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng kinh doanh sản phẩm của dự án, bàn giao nhà ở và các giấy tờ liên quan đến nhà ở giao dịch cho khách hàng; thực hiện giao dịch mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở và kinh doanh quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản.
Hơn nữa, tại Khoản 1 Điều 179 của Luật Nhà ở 2014 đã quy định: Người có hành vi vi phạm pháp luật về nhà ở thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Do đó có thể thấy rằng, pháp luật về nhà ở, pháp luật về kinh doanh bất động sản và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực nhà ở, kinh doanh bất động sản đã có quy định cụ thể về hình thức, điều kiện huy động vốn của chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại và chế tài xử lý các hành vi vi phạm trong việc huy động vốn không đúng quy định của pháp luật.
Huy dong von tai du an khu nha o do thi Viet Thanh: Dau hieu lua dao ro rang?-Hinh-2
 Trước thời điểm dự án khu nhà ở đô thị Việt Thành được phê duyệt quy hoạch, công nhận thì ông Lê Tất Thành ngang nhiên chào mời, ký kết “Hợp đồng góp vốn kinh doanh” với khách hàng, đóng dấu bởi pháp nhân Công ty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng và thương mại Việt Thành. Trong khi chủ đầu tư được UBND tỉnh Vĩnh Phúc công nhận lại là Công ty cổ phần bất động sản Việt Thành.
Theo hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Công ty tư vấn Việt Thành ký với khách hàng có các điều khoản rất rõ về việc: Điều 1: Mục đích là để hưởng quyền sử dụng đất một phần dự án… Điều 2 về lợi nhuận dự kiến phân chia: Xác định phần diện tích sẽ trao cho khách hàng cụ thể, diện tích chiều dài, rộng, mặt đường…
Như vậy, với hợp đồng hợp tác nêu trên mục đích để giữ chỗ là khá rõ ràng, điều này đồng nghĩa với việc Công ty tư vấn Việt Thành huy động vốn trái phép.
Đáng chú ý, khách hàng ký hợp đồng với Công ty tư vấn Việt Thành nhưng Công ty này không phải là chủ đầu tư dự án khu nhà ở đô thị Việt Thành (chủ đầu tư là Công ty cổ phần bất động sản Việt Thành - PV). Về bản chất, Công ty tư vấn Việt Thành không có tư cách huy động vốn thông qua hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh doanh, không có tư cách và quyền quyết định bán đất cho khách hàng như những gì mà ông Thành thông tin.
Tại thời điểm ký các hợp đồng trên, ông Thành đã cung cấp thông tin không chính xác về tư cách của Công ty tư vấn Việt Thành để ký các hợp đồng hợp tác kinh doanh với khách hàng, nhận tiền từ khách hàng. Hành vi này là có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Huy dong von tai du an khu nha o do thi Viet Thanh: Dau hieu lua dao ro rang?-Hinh-3
Luật sư Hoàng Tùng - Trưởng văn phòng luật sư Trung Hòa. 
Theo luật sư Hoàng Tùng, với những dấu hiệu như trên, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng tiến hành thanh tra, kiểm tra tính pháp lý cũng như hoạt động của dự án khu nhà ở đô thị Việt Thành cũng như các hợp đồng ông Thành đã ký với khách hàng. Trường hợp có dấu hiệu của tội phạm cần phải chuyển sang cơ quan điều tra để tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật, không bao che, dung túng.
“Đối với người dân có như cầu mua nhà hoặc đầu tư bất động sản, đặc biệt là bất động sản trong các dự án thì cần phải xem xét tính chất pháp lý của các dự án cũng như của chủ đầu tư hoặc đơn vị mình chuẩn bị ký kết hợp đồng. Điều này sẽ giúp đề phòng rủi ro và đề phòng thiệt hại”, luật sư Tùng khuyến cáo.
Trong khi đó, luật sư Đỗ Hữu Đĩnh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Việt Kim (Đoàn luật sư TP.Hà Nội) cũng nhấn mạnh, với những tài liệu do người tố giác và luật sư cung cấp, kết hợp với quá trình điều tra, xác minh của cơ quan Cảnh sát điều tra tại các cơ quan chức năng là đã đủ cơ sở chứng minh hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015, đủ căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm để khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 143 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015.
Để đa chiều và khách quan các thông tin liên quan, ngày 25/5 PV đã tìm tới địa chỉ đăng ký hoạt động của Công ty tư vấn Việt Thành tại phòng 202, số 120 đường Trần Quốc Hoàn, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, TP.Hà Nội để liên hệ và đặt lịch làm việc. Tuy nhiên, khi PV đến đây được một nhân viên bảo vệ cho biết doanh nghiệp này đã chuyển đi từ lâu.
Luật sư Hoàng Tùng trích dẫn:
Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại….
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
Mức phạt cao nhất cho hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có thể phạt tù chung thân.

Đoàn Khang

>> xem thêm

Bình luận(0)