Chuyên mục “Nhìn lại ngày hôm qua” của đài Sputnik giới thiệu với các bạn bài mạn đàm tiếp theo về sự kiện kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nga-Việt vào tháng Giêng năm 2015.
Quan sát viên đài của chúng tôi Aleksei Lensov viết:
Lần trước, chúng tôi đã nói về tầm quan trọng của viện trợ Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ và giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam. Năm 1979, sự viện trợ cần thiết cũng đã được Moskva dành cho Hà Nội trong cuộc thử thách nghiêm trọng mới – khi Trung Quốc mở cuộc tấn công vào nước cộng hòa. Đó là cuộc tấn công mạnh mẽ nhất từ phía Bắc trong vòng hơn hai thiên niên kỷ, với lực lượng thực hiện lên đến 600.000 người.
|
Bộ đội Việt Nam hành quân lên biên giới phía Bắc hồi năm 1979.
|
Để biểu thị sự ủng hộ đối với Việt Nam và chuyển hướng một phần quân đội Trung Quốc khỏi phía Nam, sáu quân khu Liên Xô được đặt trong tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô đã điều động đến gần biên giới với Trung Quốc 29 sư đoàn bộ binh cơ giới với quân số lên đến 250.000 người. Hai sư đoàn không quân cũng được chuyển đến phía Đông, trong đó có một sư đoàn ở Mông Cổ, trên sân bay mà nếu bay tới Bắc Kinh thì chỉ mất một tiếng rưỡi đồng hồ.
Ngay từ đầu tháng Hai, khi có các thông tin đầu tiên về ý định của Trung Quốc “dạy cho Việt Nam bài học”, các tàu tuần dương và tàu khu trục của Hải quân Liên Xô đã được phái đến Biển Đông. Ngay sau khi cuộc tấn công xảy ra, ở đó đã tập trung 13 tàu của Liên Xô, đến đầu tháng Ba – số tàu Liên Xô lên đến 30 chiếc. Kết quả sự hiện diện của tàu Liên Xô là Hải quân Trung Quốc với số lượng 300 tàu đã không có cơ hội để tham gia vào cuộc tấn công Việt Nam. Ngoài ra, các tàu của Liên Xô đảm bảo việc chuyển hàng an toàn cho Việt Nam. Chỉ riêng ở Hải Phòng, trong giai đoạn Việt Nam bị tấn công đã bốc dỡ hơn 20 tàu hàng và tàu chở dầu đến từ Liên Xô. Đồng thời, thủy thủ Liên Xô đã đối phó với các tàu chiến Mỹ, ngày 25 tháng Hai đã đỗ thành chuỗi ngoài khơi bờ biển Việt Nam với mục đích mà người Mỹ tuyên bố là “để kiểm soát tình hình". Để kìm giữ chúng không tới được khu vực hoạt động chiến sự, tàu ngầm của Liên Xô chặn các ngả đường tiếp cận của tàu Mỹ. Tàu Liên Xô đã tạo ra một rào cản trên biển mà tàu Mỹ đã không dám vượt qua và đến ngày 6 tháng 3 thì rút hết khỏi Biển Đông.
Cố vấn quân sự Liên Xô, Đại tá Gennady Ivanov cho biết:
“Sáng ngày 19 tháng 2, một nhóm cố vấn quân sự Liên Xô gồm các vị tướng giàu kinh nghiệm nhất đứng đầu là tướng Gennady Obaturov đã bay đến Hà Nội. Ngay khi vừa đến nơi, một cuộc họp với Bộ Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã được tổ chức, sau đó chúng tôi đã lên tuyến đầu, nơi bộ đội Việt Nam đang chiến đấu.”
|
Pháo phản lực BM-21 Grad, một loại vũ khí được Liên Xô tăng cường viện trợ cho Việt Nam trong năm 1979.
|
Tổng bí thư Lê Duẩn tán thành đề xuất của ông Obaturov dùng máy bay của Liên Xô đưa những quân đoàn tinh nhuệ nhất từ Campuchia về mặt trận phía Bắc. Hơn nữa, TBT Lê Duẩn chỉ thị cho các chỉ huy quân sự của Việt Nam, trước khi đưa ra bất cứ quyết định gì, phải thống nhất với các cố vấn quân sự Liên Xô. Rất đáng tiếc là về phía các chuyên gia quân sự Liên Xô đã không tránh khỏi tổn thất. Khi hạ cánh tại Đà Nẵng, máy bay vận tải Liên Xô gặp sự cố, sáu sĩ quan Xô Viết bị hy sinh.
Tướng Obaturov cũng đã báo cáo cho lãnh đạo Liên Xô về việc phải khẩn cấp chuyển đến cho Việt Nam những thiết bị và vũ khí cần thiết để đẩy lùi đối phương. Tất cả yêu cầu được đáp ứng nhanh chóng. Máy bay vận tải quân sự của Liên Xô đã chuyển cho Việt Nam nhiều tên lửa "Grad", thiết bị cho các đơn vị tình báo điện tử, cùng các phương tiện hỗ trợ chiến đấu khác.
Tất cả điều này đã xác định kết quả cuộc chiến tranh, trong đó vai trò quyết định tất nhiên thuộc về lực lượng vũ trang anh hùng của Việt Nam. Ngày 5 tháng 3 1979, Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Ngày 18 tháng Ba chiến sự được hoàn toàn ngừng lại. Cuộc tấn công mạnh mẽ nhất của Trung Quốc vào Việt Nam trở thành cuộc tấn công có thời gian ngắn nhất.