Theo Sở Y tế TP HCM, ngày 27/9/2024 Bộ Y tế Rwanda ra thông báo về một vụ dịch do virus Marburg lần đầu tiên được phát hiện tại nước này.
Theo thông tin cập nhật mới nhất đến ngày 11/10/2024 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tính đến ngày 10/10/2024 đã ghi nhận tổng cộng 58 trường hợp mắc bệnh do virus Marburg (MVD), bao gồm 13 trường hợp tử vong. Tỷ lệ tử vong theo ca bệnh là 22% đã được báo cáo tại Rwanda.
Kể từ khi công bố bùng phát vào ngày 27/9 và tính đến 10/10, 15 trường hợp được xác nhận đã hồi phục, 30 trường hợp còn lại đang được chăm sóc tại trung tâm điều trị Marburg.
WHO đã đánh giá nguy cơ của đợt bùng phát bệnh là rất cao ở cấp quốc gia, cao ở cấp khu vực Châu Phi và thấp ở cấp độ toàn cầu, đồng thời khuyến cáo không nên áp dụng bất kỳ hạn chế đi lại và thương mại nào với Rwanda trong bối cảnh dịch bệnh do virus Marburg đang diễn ra.
|
Thực hiện các biện pháp kiểm soát bệnh Marburg tại Rwanda (nguồn: WHO) |
Tác nhân gây xuất huyết nguy hiểm
BS.CKI Lê Thị Trúc Phương, Hệ thống tiêm chủng VNVC cho biết, Virus Marburg là tác nhân gây xuất huyết nguy hiểm, có khả năng lây nhiễm tương tự Ebola với tỷ lệ tử vong lên 23-90%.
Virus Marburg (Marburg Virus Disease – MVD) là một virus RNA thuộc họ Filovirus, cùng họ với virus Ebola, đây là loại virus lây truyền từ động vật sang người, gây sốt xuất huyết và xuất huyết nghiêm trọng ở nhiều bộ phận trong cơ thể.
Vật chủ ban đầu chứa virus Marburg là dơi ăn quả châu Phi, có tên gọi Rousettus aegyptiacus. Dơi ăn quả bị nhiễm virus Marburg không có dấu hiệu bệnh rõ ràng, khó nhận biết. Nhưng các loài linh trưởng (bao gồm cả con người) mắc bệnh có thể phát triển triệu chứng nghiêm trọng, tỷ lệ tử vong cao tương tự với Ebola.
Giống với Ebola, virus Marburg gây sốt xuất huyết – được gọi sốt xuất huyết Marburg, người bệnh sẽ sốt cao đột ngột và chảy máu ở nhiều bộ phận của cơ thể, gây sốc, suy tạng và tử vong nhanh.
Virus Marburg lây truyền từ vật chủ động vật sang người. Marburg và Ebola là virus cùng họ Filoviridae. Đây là hai bệnh hiếm gặp, nhưng có thể bùng phát dữ dội với tỷ lệ tử vong cao.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ tử vong các ca bệnh trong đợt bùng phát đầu tiên năm 1967 là 24%, song tăng lên 83% trong đợt dịch ở Congo năm 1998-2000, tiếp tục tăng lên 100% vào năm 2017 khi lây lan ở Uganda. Theo đó, tỷ lệ tử vong dao động từ 23% đến 90%, tùy thuộc vào chủng virus và cách giám sát và điều trị ca bệnh.
Virus Marburg là loại virus rất nguy hiểm, xét về độ kịch độc thì Marburg gần như không có đối thủ. Nếu như Dengue, Zika thuộc họ Flaviviridae chỉ thuộc nhóm nguy cơ số 2 – tức không quá nghiêm trọng và có thể điều trị, phòng ngừa thì Marburg lại được xếp vào nhóm nguy cơ số 4.
|
Virus Marburg có đường lây truyền đa dạng - Ảnh minh họa |
Con đường lây truyền virus Marburg
Virus Marburg có đường lây truyền đa dạng, theo các chuyên gia y tế virus Marburg lây truyền sang người từ dơi ăn quả châu Phi thông qua nhiều cơ chế khác nhau, cụ thể:
Tiếp xúc lâu dài với phân hay chất tiết của dơi Rousettus trong hầm mỏ. Một khi người bị nhiễm virus nếu tiếp xúc trực tiếp (da trầy xước hay niêm mạc) với máu, chất tiết, tạng hay tiếp xúc gián tiếp dịch cơ thể ngay cả trên bề mặt hay dụng cụ (quần áo, drap giường) bị lây nhiễm dịch tiết, hay tiếp xúc với thực phẩm nhiễm virus.
Virus Marburg cũng có thể lây truyền qua đường tình dục (quan hệ tình dục bằng miệng, âm đạo hoặc hậu môn) thông qua việc tiếp xúc với tinh dịch của người đã khỏi bệnh.
Ngoài ra, virus Marburg cũng được truyền cho thai nhi qua nhau thai. Ở phụ nữ mang thai, virus Marburg có thể tồn tại trong nhau thai và nước ối. Đối với phụ nữ đang cho con bú, nếu bị nhiễm Marburg, virus có thể tồn tại trong sữa mẹ.
Đối tượng dễ mắc virus Marburg là người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân, đặc biệt là các thành viên trong gia đình chăm sóc họ tại nhà hoặc nhân viên bệnh viện.
Virus nguy hiểm nhất thế giới
Virus Marburg được đánh giá là một trong những virus nguy hiểm thế giới. Vậy triệu chứng nhiễm vi rút Marburg là gì? Theo các chuyên gia y tế, sau thời gian ủ bệnh trung bình 2-21 ngày, các triệu chứng khởi phát đột ngột, tùy thuộc vào lượng virus lây nhiễm và con đường lây nhiễm. Đặc biệt, vi rút Marburg không lây nhuyễn trong thời gian ủ bệnh.
Triệu chứng khi nhiễm virus Marburg như sau:
Sốt cao, đau đầu, đau họng, mệt mỏi dữ dội và đau cơ khởi phát đột ngột. Từ ngày thứ 3, tiêu chảy nước, đau bụng, nôn và buồn nôn có thể xuất hiện. Tình trạng tiêu chảy có thể kéo dài cả tuần. Triệu chứng nghiêm trọng hơn là vàng da, viêm tụy, sụt cân nghiêm trọng, mê sảng, sốc, suy gan, xuất huyết ồ ạt và rối loạn chức năng đa cơ quan. Trong giai đoạn này người bệnh trông giống “thây ma” với gương mặt thất thần, vô cảm với mắt thâm quầng, trũng sâu.
Trong vòng 7 ngày đầu, tình trạng xuất huyết có thể xảy ra – đây là nguyên nhân gây tử vong với nguy cơ xuất huyết ở nhiều cơ quan khác nhau. Xuất huyết tiêu hóa bao gồm: ói ra máu, tiêu ra ra máu tươi thường kèm chảy máu mũi, máu răng hay xuất huyết âm đạo. Xuất huyết tự nhiên hay chảy máu nơi tiêm chích nghiêm trọng. Ngoài ra bệnh có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh bao gồm: sốt cao, lú lẫn, kích thích, và kích động.
Trong khoảng 15 ngày sau khởi phát bệnh nhân có thể có sẩn hồng ban, thường ở thân: ngực, lưng, bụng trên. Tình trạng viêm tinh hoàn có thể xuất hiện ở giai đoạn này.
Đáng lo ngại, bệnh Marburg có thể gây tử vong thường sau 7-8 ngày khởi phát bệnh do mất máu hay sốc. Các triệu chứng diễn tiến nặng bao gồm vàng da, viêm tụy, suy gan, suy đa cơ quan và xuất huyết nặng.
Các triệu chứng của bệnh Marburg thường rất đột ngột nên có thể khó phân biệt lâm sàng của bệnh do virus Marburg với các bệnh truyền nhiễm khác như: sốt rét, sốt thương hàn, bệnh nhiễm khuẩn shigella, viêm màng não và các bệnh sốt xuất huyết do virus khác (như sốt Lassa hoặc Ebola). Việc chậm trễ trong chẩn đoán có thể cản trở cơ hội sống sót của người bệnh và tạo ra thách thức trong việc kiểm soát sự lây truyền và bùng phát.
Nếu một người có các triệu chứng ban đầu của bệnh Marburg hoặc đã từng đến các khu vực có lưu hành virus Marburg cần được cách ly và thông báo cho các chuyên gia y tế công cộng để lấy mẫu và xét nghiệm để chẩn đoán bệnh.
Hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu bệnh do virus Marburg. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị việc chăm sóc hỗ trợ sớm, điều trị theo triệu chứng, bổ sung chất điện giải, duy trì tình trạng oxy và huyết áp, xử lý các yếu tố đông máu và xuất huyết là cách cải thiện tỷ lệ sống sót cho người bệnh.
Phương pháp phòng ngừa nhiễm virus Marburg
Theo các chuyên gia y tế, cách phòng ngừa nhiễm virus Marburg tốt nhất ở thời điểm hiện tại là ngăn chặn sự lây truyền trực tiếp từ người sang người cũng như hạn chế sự lây lan virus từ vật chủ hoặc động vật bị nhiễm bệnh sang người. Các biện pháp phòng ngừa được chuyên gia khuyến cáo như sau:
- Tránh tiếp xúc hoặc đến nơi cư trú của loài dơi ăn quả châu Phi, động vật hoang dã bị nhiễm virus như: khỉ, linh dương rừng, loài gặm nhấm…
- Không ăn/tiêu thụ thịt của động vật hoang dã.
- Nấu chín kỹ thực phẩm trước khi ăn, nhất là các loại thịt.
- Phát hiện sớm và cách ly nhanh chóng hệ thống các ca bệnh.
- Truy vết kịp thời những người có tiếp xúc với người nhiễm Marburg và giám sát chặt chẽ những người có nguy cơ cao nhiễm bệnh.
- Hạn chế tiếp xúc với người nghi nhiễm hoặc bị nhiễm virus Marburg, đặc biệt mặc áo bảo hộ, đeo găng tay, khẩu trang, mắt kính, rửa tay thường xuyên,… nếu tiếp xúc với người bệnh.
- Thận trọng với các chất thải như máu, bãi nôn, nước bọt, nước tiểu, phân… hoặc bất cứ đồ vật nào của người bệnh.
Ở khía cạnh quan hệ tình dục, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo, nam giới sau khi khỏi bệnh cần đợi ít nhất 12 tháng mới nên quan hệ tình dục an toàn, trừ khi xét nghiệm tinh dịch của người đã khỏi bệnh cho kết quả âm tính trong 2 lần khác nhau.