Thực hư huyền thoại của loài ‘cá thiêng’ trên sông Mê Kong

Google News

Câu chuyện về cá ông, cá bà là câu câu chuyện về những con cá heo đực, cá heo cái (cá heo Irrawaddy hay còn gọi là cá nược) mà người dân hay gặp khi họ hành nghề đánh cá trên sông Mê Kong.  

Vận động viên “đáng yêu” trên sông
Khoảng 70 năm về trước thỉnh thoảng người ta vẫn thấy loài cá nặng chừng 100kg, thân hình giống chiếc tàu ngầm, hay khịt lên những vòi nước cao quá đầu… xuất hiện bên những đoạn sông ít người qua lại. Những dòng sông chở đầy nhiều câu chuyện về các loài “quái ngư”, từ cá tra dầu, cá vồ cờ, cá hô, cá đuối… khổng lồ, mang sự kỳ bí, bí ẩn. Nhưng trong các loài cá hiếm nhất trên các dòng sông miền Tây, có lẽ không loài cá nào mang những niềm vui cho đời sống con người như cá heo Irrawaddy này. Nguời miền Tây thường gọi cá heo Irrawaddy là “ông” nược.
Thuc hu huyen thoai cua loai ‘ca thieng’ tren song Me Kong
Loài cá heo Irrawaddy hay còn gọi cá nược, cùng họ với loài cá voi (ngoài biển) - Ảnh: internet 
Trước đây, loài cá nược thường bơi lội trên 2 con sông Tiền và sông Hậu, nhưng mật độ “đậm đặc” phải nói là trên sông Vàm Nao (An Giang). Người ta cho rằng thức ăn của cá nược là phiêu sinh, thủy sinh (rong cỏ), nhưng các ngư dân lại quả quyết thức ăn chính của cá nược là các loại cá nhỏ. Vì cá nược thuộc họ “cá voi biển” nên khá to, lưng màu nâu đen, bụng màu nhạt hơn, toàn thân trơn nhớt.
Thuc hu huyen thoai cua loai ‘ca thieng’ tren song Me Kong-Hinh-2
Loài cá nược thường bơi lội trên 2 con sông Tiền và sông Hậu, nhưng mật độ đậm đặc phải nói là trên sông Vàm Nao - Ảnh: Tô Văn 
Những người đi sông, đi biển thường thấy cá nược đực rất to so với cá nược cái. Con cá cái có 2 vú lớn mọc dưới vây trước y như vú đàn bà, tức không nằm xuôi theo lườn. Con đực, tất nhiên cũng có “cái ấy” y bộ phận sinh dục của đàn ông, ló ra khoảng 5cm (nhưng khi giao cấu có to hơn hay dài hơn hay không thì không ai xác định được, vì ở dưới nước). Theo tìm hiểu, loài cá nược đẻ mỗi lần chỉ 1 con.
Cá con mới đẻ đã trên 10kg, bú vú mẹ cho đến khi biết tự tìm thức ăn. Khi cá trưởng thành dài khoảng 2,5m, trọng lượng đạt đến 400kg. Loài cá nược thường sống hòa đồng với các loài sinh vật khác và rất hiền, chẳng những không bao giờ làm hại ai mà còn tỏ ra rất thân thiện với người. Vui tính và giúp người là “cái tánh” của cá nược.
“Tôi nhớ không nhầm, lúc còn nhỏ, khoảng thời gian tôi học lớp nhì (lớp 4), vào lúc giữa trưa, bỗng 1 sinh vật to lớn nổi lên đưa cặp vú trắng phếu giữa dòng sông. Khi đó tôi và hàng chục đứa trẻ đang tắm sông. Chúng tôi thấy vậy liền bơi ra và đùa giỡn, rồi một hồi hè nhau đếm: “1, 2, 3”, tiếp theo đồng la lớn vài lần câu: “Ông Nược ơi! Đua! Đua!”. Tức thì ngay sau đó, chỉ 10 - 15 phút, 1 bầy cá nược xuất hiện (tất nhiên nhằm lúc chúng có quanh quẩn gần đó).
“Vận động viên” nào cũng trồi lên hụp xuống “đua tốc độ”, nhưng khá chậm chứ không nhanh như các loại cá khác. Thỉnh thoảng thấy phun nước khi nó nhảy thẳng lên mặt nước. Đám trẻ chúng tôi càng vỗ tay reo hò: “Ông Nược đua! Ông Nược đua!”, chúng càng “hứng chí”… Rất vui”, ông Ba Hải (1 ngư dân đã bỏ nghề ở ấp Vàm Nao, xã Tân Trung, H.Phú Tân, tỉnh An Giang), kể lại.
Cũng theo ông Hải, thường các lão ngư ở An Giang kể cho con cháu nghe những giai thoại về loài cá dễ thương này, vào cái thuở trên sông không có quá nhiều ghe tàu, máy nổ ầm ì như ngày nay. Những người sống nghề “Bà Cậu” (đánh bắt thủy sản) thường thầm vái “Ông Nược” độ để đánh bắt được thật nhiều cá.
Phổ biến nhất là khi biết có luồng cá rất nhiều đang di chuyển, nhưng không nhằm vào lưới đang giăng, ngư dân thường gây tiếng động bằng cách vỗ tay (hoặc gõ khua trên mạn thuyền) và la lớn vài ba lần giữa thinh không: “Lùa cá vô lưới giùm Ông Nược ơi!”. “Thật kỳ diệu, dù đang lặn sâu dưới nước chúng cũng nghe được tiếng người! Mỗi lần nhờ đến, “Ông Nược” đều giúp bằng cách vừa lội ven theo đàn cá vừa nhảy tung lên phun nước xối xả (từ 1 cái lỗ ở trán) lùa cá vô lưới”, ông kể.
Những câu chuyện đó được lặp đi lặp lại trên đoạn sông lớn mà chúng tôi đi qua, được truyền lại từ những người cao tuổi này đến những người cao tuổi khác chứ không riêng ông Hải… Như ông Năm Chức (80 tuổi, ngụ xã Tân Trung, H.Phú Tân, tỉnh An Giang), kể rằng, khúc sông trước nhà ông, trước có bầy cá nược hay qua lại, thấy vậy ông thường chọc ghẹo chúng: “Nược ơi, đua”. Lát sau, cả bầy nhào lộn thấy thương.
“Mà chúng nó nhào lộn giống diễn viên xiếc dưới nước, ngưỡng mộ thật. Chú càng vỗ tay, nguyên bầy càng nhào lộn dữ hơn. Ngoài việc rủ đua thì loài cá này thường rất thích trẻ con, chúng khoái được bơi với trẻ con lắm!. Đám cháu của chú miễn gặp loài cá này là hô hào bơi đua. Chú nhớ không lầm vào khoảng 1970, chú đang cùng mấy anh em dỡ chà bắt cá trên sông Vàm Nao.
Khi nghe tụi nhỏ reo lên “Ông Nược, đua! Ông Nược, đua!”, tụi chú liền mừng rỡ, đồng thanh la lên: “Lùa cá vô lưới, lùa cá vô lưới ông Nược ơi!”. Lập tức đang giỡn với tụi nhóc, cả đàn cá nược quay ngược lại chỗ chú và quần thảo quanh đoạn sông gần đống chà. Đến khi tôm cá sợ chạy hết vào chà thì tụi chú mới bắt hết”, ông Năm Chức bộc bạch. Khi thu hoạch cá xong, ông Năm cùng nhiều người trong nhóm thưởng cho bầy cá nược vài con cá tươi sống. “Nhưng bây giờ không còn có những hoạt cảnh cá nược nhào lộn như ngày xưa nữa rồi”, ông than vãn.
Từ loài cá “dễ thương”, sao ngư dân lại tôn thờ
Sống ở sông, loài “cá thiêng” này thuộc dòng cá voi hay cá ông. Tuy nhiên vì sống ở sông trong môi trường chật hẹp, nên loài cá tương cận này có vóc dáng khiêm tốn hơn, chỉ bằng khoảng 1/5 cùng loài, ở biển. Nhiều ngư dân vẫn tin rằng loài cá này có “cốt người”, chúng sống rất hiền hòa, và hiểu được tiếng người.
Dân thương hồ, đang chơi vơi giữa sông mà gặp sóng to gió lớn, ghe sắp bị chìm, người ta hay la lớn cầu cứu: “Bớ Ông Nược! Mau mau cứu ghe chìm! Ghe chìm! Bớ Ông Nược!”... thì y như rằng, “Ông Nược” sẽ kịp thời cứu giúp, bằng cách nổi lên tựa lưng vào ghe dìu đưa vô bờ! “Kịp thời cứu mạng trong những lúc thập tử nhứt sanh như vậy thì còn ân nghĩa nào bằng. Chính vì vậy bà con (người Việt) rất mến kính, bất luận cá cái hay cá đực đều gọi chung nhất là “Ông Nược””, 1 lão ngư nói vậy. Tuy nhiên, có người cho rằng, đó chỉ là đặc tính của cá nược, khi sóng to gió lớn hay dựa vào ghe để tránh…
Trong đánh bắt thủy sản, nếu “Ông Nược” mắc lưới, ngư dân liền mau mau cắt lưới để thả (bị lưới quấn, vô phương vùng vẫy), lại cho là điều không may (rất xui) nên họ không thể không mua nhang đèn, lễ vật trọng hậu để xin lỗi “Ông”, mà còn van vái “Bà Cậu” thông cảm, vì đây là việc hoàn toàn ngoài ý muốn. “Khoảng 20 năm về trước ở sông Vàm Nao có người thả lưới dính “Ông Nược”, người ấy sợ hãi đến mức phải cạo đầu, bán xuồng (nhưng rất khó bán, vì người địa phương đều đã nghe biết sự việc ấy nên không ai dám mua), và… giải nghệ.
Vậy mà cũng vẫn bị ám ảnh, không làm ăn gì được, phải chịu nghèo ngót 8 năm mới cất đầu lên nổi. Mấy lần thấy xác cá chết nổi trên sông, người dân liền làm lễ cúng vái, sau đó mang đi chôn cất rất long trọng, ngư dân trong vùng sông Hậu luôn xem loài cá này là “cá thiêng” hơn cả con chó, con mèo trong nhà của mình”, 1 lão ngư ở Phú Tân nhận xét.
Ông Nguyễn Hữu Hiệp (79 tuổi, ngụ H.Phú Tân, tỉnh An Giang) - Nhà Nghiên cứu văn hóa dân gian, cho biết: “Với ngư dân người Việt lớp trước, cá nược được xem là “ân nhân”, nên họ không chỉ xem nó như 1 loài cá quý mà ở nhiều nơi miền biển người ta còn hiểu là “nhân ngư”, tôn xưng là “thần”, lập đền thờ để thờ, gọi “Đền Nam Hải tướng quân”. Sách Gia Định thành thông chí chép:“Thần là con cá nhân ngư, không có vảy, đầu tròn trơn láng, đỉnh trán có lỗ phun nước ra như mưa, môi voi, đuôi tôm, dài đến 2,3 trượng, ưa nhảy bơi trên mặt biển.
Ngư phủ giăng lưới dính cá, thường hô là thần mà cầu khấn, thì nhân ngư đuổi bầy cá chạy cả vào lưới. Ngư phủ rất cảm ơn, có khi nhân ngư lầm vào trong lưới, thì ngư phủ mở một mặt lưới kêu mà dẫn ra, nhân ngư ắt theo cửa lưới ấy mà ra! Lại những ghe thuyền trong biển gặp lúc gió sóng nguy hiểm, thường thấy nhân ngư dìu đỡ thân ghe bảo vệ vào bờ yên ổn. Còn hoặc ghe bị chìm úp thì cũng trong cơn sóng gió rầm rộ ấy nhân ngư cũng đưa người lên bờ, sự hỗ trợ hiển nhiên rõ rệt.
Nhưng chỉ có trong Nam từ Linh Giang đến Hà Tiên có sự linh ứng cứu vớt mau chóng mà thôi, còn các biển khác không có. Có lẽ vì núi biển phương Nam hun đúc thiêng liêng được âm phù mặc trợ để bảo hộ sinh dân của ta vậy chăng? Triều đình đã phong tặng làm “Nam Hải Tướng quân Ngọc lân tôn thần”, kê vào tự điển.
Cá ấy rủi ro mà bị ác ngư khác đánh chết nổi trên mặt bể thì dân miền biển góp tiền mua hàng, vải đồ liệm rồi lựa một người đàn anh trong ngư hộ đứng làm chủ tang, đào đất chôn cất cẩn thận, và dựng đền ở ngay bên mộ. Những chỗ có chôn cá ấy thì dân chỗ ấy được nhiều lợi may mắn, còn chỗ tuy không chôn cũng đều lập đền thờ, dọc theo miền biển đều như thế cả”.
Còn theo Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Cá Voi có tục danh là cá Ông Voi, đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn láng, không có vảy, đuôi có 2 chĩa như đuôi tôm, có tánh từ thiện, hay giải cứu cho người khi qua biển mắc nạn. Đầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên là Nhân Ngư, đầu niên hiệu Tự Đức đổi lại Đức Ngư”.
Thành ra, ý thức bảo vệ và đối xử tử tế với “Nhân ngư; Đức Ngư” không chỉ tôn trọng pháp luật, mà còn thể hiện tinh thần đạo lý đối với loài cá có tánh từ thiện này là nét đẹp trong văn hóa đánh bắt của bà con ngư dân, cũng là một tín ngưỡng dân gian Nam Bộ”, ông Hiệp nhận định.
Đó là chuyện của ngày trước, nay hầu hết bà con đã chuyển nghề, vả lại cá nược trên sông Vàm Nao cũng không còn. Những hình ảnh về loài cá nược là chuyện đã lùi vào ký ức, Quỹ Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WWF) đã đưa con vật này có tên trong sách Đỏ. Thì đến nay hầu khắp các chợ lớn, chợ nhỏ đều không thấy ai bán thịt cá nược, tức cá voi sông - đúng hơn là cá voi biển sống được trong môi trường nước ngọt. Chỉ mới đây, 1 ngư dân ở Bến Tre vừa đánh lưới dính được 1 cá nược, nhưng tiếc rằng sau đó đã chết.
Theo Tô Văn/Một Thế Giới

>> xem thêm

Bình luận(0)