Đồng tính nữ là những phụ nữ có hành vi quan hệ tình dục với phụ nữ hoặc có thiên hướng tình dục với phụ nữ. Đồng tính nữ có nguy cơ mắc một số bệnh cao hơn so với phụ nữ bình thường, điển hình là ung thư tử cung.Mặc dù gần như tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung là do khối u ác tính, hay vi rút HPV, nhiễm trùng, nhưng bác sỹ lại cho rằng, nhiều nguyên nhân khách quan có thể gây cho đồng tính nữ mắc bệnh ung thư này. Không dùng biện pháp khi quan hệ tình dục. Đồng tính nữ thường quan niệm sai lầm rằng tình dục đồng giới thì không lây nhiễm, vì vậy ít khi thực hiện các xét nghiệm sàng lọc hay các biện pháp bảo vệ.Thực tế các vi-rút gây ung thư cổ tử cung có thể lây truyền qua đường tình dục giữa những người phụ nữ. Vì vậy, đồng tính nữ cần thực hiện các xét nghiệm sàng lọc (như xét nghiệm Pap smear) để phát hiện thương tổn tiền ung thư trong giai đoạn sớm.Đồng tính nữ cũng ít khám lâm sàng và chụp vú. Điều này có thể do họ sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử; hoặc không muốn chia sẻ đời sống tình dục với bác sỹ. Từ đó khiến họ mất cơ hội được chẩn đoán sớm khi bệnh có thể được điều trị ở giai đoạn sớm nhất.Phần lớn, nữ đồng tính sẽ chú tâm đến vấn đề cảm xúc và quan hệ tình dục theo nhiều kiểu hơn là chăm chăm vào âm đạo như cặp đôi khác giới bình thường. Do đó mà tử cung của họ cũng ít được quan tâm chăm sóc để nhận ra dấu hiệu lạ ở vùng kín.Đồng tính nữ ít có khả năng mang thai. Đồng tính nữ ít có khả năng mang thai hơn phụ nữ bình thường. Những hoóc-môn trong thời kỳ mang thai và cho con bú giúp phụ nữ phòng ngừa ung thư buồng trứng, ung thư nội mạc tử cung và ung thư vú.Những phụ nữ đồng tính cũng có nguy cơ bị buồng trứng đa nang cao hơn các phụ nữ khác do cơ thể họ có quá nhiều nội tiết tố nam và không đủ nội tiết tố nữ. Vì vậy, để tránh bị loại ung thư nguy hiểm này, phụ nữ đồng tinhd nên sàng lọc tế bào cổ tử cung bất thường ở lứa tuổi 21 - 65.
Đồng tính nữ là những phụ nữ có hành vi quan hệ tình dục với phụ nữ hoặc có thiên hướng tình dục với phụ nữ. Đồng tính nữ có nguy cơ mắc một số bệnh cao hơn so với phụ nữ bình thường, điển hình là ung thư tử cung.
Mặc dù gần như tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung là do khối u ác tính, hay vi rút HPV, nhiễm trùng, nhưng bác sỹ lại cho rằng, nhiều nguyên nhân khách quan có thể gây cho đồng tính nữ mắc bệnh ung thư này.
Không dùng biện pháp khi quan hệ tình dục. Đồng tính nữ thường quan niệm sai lầm rằng tình dục đồng giới thì không lây nhiễm, vì vậy ít khi thực hiện các xét nghiệm sàng lọc hay các biện pháp bảo vệ.
Thực tế các vi-rút gây ung thư cổ tử cung có thể lây truyền qua đường tình dục giữa những người phụ nữ. Vì vậy, đồng tính nữ cần thực hiện các xét nghiệm sàng lọc (như xét nghiệm Pap smear) để phát hiện thương tổn tiền ung thư trong giai đoạn sớm.
Đồng tính nữ cũng ít khám lâm sàng và chụp vú. Điều này có thể do họ sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử; hoặc không muốn chia sẻ đời sống tình dục với bác sỹ. Từ đó khiến họ mất cơ hội được chẩn đoán sớm khi bệnh có thể được điều trị ở giai đoạn sớm nhất.
Phần lớn, nữ đồng tính sẽ chú tâm đến vấn đề cảm xúc và quan hệ tình dục theo nhiều kiểu hơn là chăm chăm vào âm đạo như cặp đôi khác giới bình thường. Do đó mà tử cung của họ cũng ít được quan tâm chăm sóc để nhận ra dấu hiệu lạ ở vùng kín.
Đồng tính nữ ít có khả năng mang thai. Đồng tính nữ ít có khả năng mang thai hơn phụ nữ bình thường. Những hoóc-môn trong thời kỳ mang thai và cho con bú giúp phụ nữ phòng ngừa ung thư buồng trứng, ung thư nội mạc tử cung và ung thư vú.
Những phụ nữ đồng tính cũng có nguy cơ bị buồng trứng đa nang cao hơn các phụ nữ khác do cơ thể họ có quá nhiều nội tiết tố nam và không đủ nội tiết tố nữ. Vì vậy, để tránh bị loại ung thư nguy hiểm này, phụ nữ đồng tinhd nên sàng lọc tế bào cổ tử cung bất thường ở lứa tuổi 21 - 65.