Có nguồn gốc từ khu vực Đông Á, lửng chó (Nyctereutes procyonoides) là một gương mặt thú vị thuộc họ Chó (Canidae). Chúng là loài bản địa ở vùng Amur của Nga, Đông Trung Quốc, Bắc Việt Nam và Lào. Ảnh: The Guardian.Lửng chó trưởng thành có chiều dài thân 54-61 cm, đuôi dài 16-18 cm, nặng 3-5 kg. Chúng có đầu nhỏ, tai tròn, mõm ngắn và hơi nhọn, chân ngắn. Ảnh: Duluth News Tribune.Bộ lông lửng chó dài và thô, màu vàng hung, mút lông xám, đầu, mỏm và bốn vó chân đen. Lông đuôi rậm, màu xám. Ảnh: Phys.org.Loài vật họ Chó này sống trên ở khu vực savan cây bụi, ven các nương rẫy, dọc theo khe suối. Chúng có sống đơn độc, thầm lặng và luôn thận trọng, kiếm ăn từ chập tối đến nửa đêm. Ảnh: Evening Standard.Nguồn thức ăn của lửng chó khá đa dạng. Chúng ăn động vật gặm nhấm, chim chóc, giun đất, côn trùng, ốc hến, ếch nhái, một số củ, quả, hạt cây lương thực, xác thối và cả đồ ăn thừa của con người. Ảnh: USA Today.Lửng chó là loài ăn thịt hiếm hoi có thể xơi những con cóc có chất tiết độc hại trên da. Chúng làm điều này bằng cách tiết ra nhiều nước bọt để pha loãng chất độc. Ảnh: CNN.Loài chó kỳ khôi này sinh sản vào các tháng 4, 5, 6. Chúng mang thai 60 ngày, mỗi lứa đẻ 3 - 4 con trong tổ tự làm ở các bụi cây rậm. Con non trưởng thành sinh dục sau 10 tháng. Ảnh: ZooChat.So với các loài khác trong họ Chó, lửng chó có nhiều đặc điển khác thường, như sử dụng nhiều thực vật trong chế độ ăn, leo trèo cây giỏi và ngủ đông ở những vùng có khí hậu lạnh giá. Ảnh: Rover.com.Mặc dù rất giống gấu mèo (Procyon lotor), lửng chó không có quan hệ họ hàng gần với loài vật sống ở Bắc Mỹ này. Bên ngoài chi Nyctereutes, lửng chó có họ hàng gần nhất với các loài cáo (chi Vulpes). Ảnh: Four Paws.Có bốn phân loài lửng chó được công nhận, gồm lửng chó Ussuri (N. p. ussuriensis), lửng chó Trung Hoa (N. p. procyonoides), lửng chó Triều Tiên (N. p. koreensis) và lửng chó Vân Nam (N. p. orestes). Ảnh: EurekAlert.Lửng chó Nhật Bản (Nyctereutes viverrinus) hay tanuki từng được coi là một phân loài của lửng chó, cho đến khi tách thành loài riêng từ năm 2001. Loài vật này rất nổi tiếng trong văn hóa dân gian Nhật Bản. Ảnh: Treehugger.Vào thập niên 1940, lửng chó đã được du nhập vào các vùng phía Tây của Liên Xô (Kavkaz, Ukraina và Belarus) để khai thác da lông trong các trang trại và đã phát triển các quần thể hoang dã. Ảnh: We Animals Media.Từ khu vực được du nhập, địa bàn sinh sống của lửng chó đã lan rộng đến bán đảo Scandinavia, Romania, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Đức, Thụy Sĩ và Pháp. Chúng bị coi là loài xâm lấn ở nhiều khu vực. Ảnh: Wikipedia.Khu vực phía Bắc Việt Nam được công nhận là vùng phân bố của phân loài lửng chó Vân Nam. Số lượng lửng chó ở Việt Nam không còn nhiều, và có ít dữ liệu khoa học về loài vật này ở trong nước được công bố. Ảnh: The Mammal Society.Mời quý độc giả xem video: Khi động vật hoang dã kêu cứu | VTV24.
Có nguồn gốc từ khu vực Đông Á, lửng chó (Nyctereutes procyonoides) là một gương mặt thú vị thuộc họ Chó (Canidae). Chúng là loài bản địa ở vùng Amur của Nga, Đông Trung Quốc, Bắc Việt Nam và Lào. Ảnh: The Guardian.
Lửng chó trưởng thành có chiều dài thân 54-61 cm, đuôi dài 16-18 cm, nặng 3-5 kg. Chúng có đầu nhỏ, tai tròn, mõm ngắn và hơi nhọn, chân ngắn. Ảnh: Duluth News Tribune.
Bộ lông lửng chó dài và thô, màu vàng hung, mút lông xám, đầu, mỏm và bốn vó chân đen. Lông đuôi rậm, màu xám. Ảnh: Phys.org.
Loài vật họ Chó này sống trên ở khu vực savan cây bụi, ven các nương rẫy, dọc theo khe suối. Chúng có sống đơn độc, thầm lặng và luôn thận trọng, kiếm ăn từ chập tối đến nửa đêm. Ảnh: Evening Standard.
Nguồn thức ăn của lửng chó khá đa dạng. Chúng ăn động vật gặm nhấm, chim chóc, giun đất, côn trùng, ốc hến, ếch nhái, một số củ, quả, hạt cây lương thực, xác thối và cả đồ ăn thừa của con người. Ảnh: USA Today.
Lửng chó là loài ăn thịt hiếm hoi có thể xơi những con cóc có chất tiết độc hại trên da. Chúng làm điều này bằng cách tiết ra nhiều nước bọt để pha loãng chất độc. Ảnh: CNN.
Loài chó kỳ khôi này sinh sản vào các tháng 4, 5, 6. Chúng mang thai 60 ngày, mỗi lứa đẻ 3 - 4 con trong tổ tự làm ở các bụi cây rậm. Con non trưởng thành sinh dục sau 10 tháng. Ảnh: ZooChat.
So với các loài khác trong họ Chó, lửng chó có nhiều đặc điển khác thường, như sử dụng nhiều thực vật trong chế độ ăn, leo trèo cây giỏi và ngủ đông ở những vùng có khí hậu lạnh giá. Ảnh: Rover.com.
Mặc dù rất giống gấu mèo (Procyon lotor), lửng chó không có quan hệ họ hàng gần với loài vật sống ở Bắc Mỹ này. Bên ngoài chi Nyctereutes, lửng chó có họ hàng gần nhất với các loài cáo (chi Vulpes). Ảnh: Four Paws.
Có bốn phân loài lửng chó được công nhận, gồm lửng chó Ussuri (N. p. ussuriensis), lửng chó Trung Hoa (N. p. procyonoides), lửng chó Triều Tiên (N. p. koreensis) và lửng chó Vân Nam (N. p. orestes). Ảnh: EurekAlert.
Lửng chó Nhật Bản (Nyctereutes viverrinus) hay tanuki từng được coi là một phân loài của lửng chó, cho đến khi tách thành loài riêng từ năm 2001. Loài vật này rất nổi tiếng trong văn hóa dân gian Nhật Bản. Ảnh: Treehugger.
Vào thập niên 1940, lửng chó đã được du nhập vào các vùng phía Tây của Liên Xô (Kavkaz, Ukraina và Belarus) để khai thác da lông trong các trang trại và đã phát triển các quần thể hoang dã. Ảnh: We Animals Media.
Từ khu vực được du nhập, địa bàn sinh sống của lửng chó đã lan rộng đến bán đảo Scandinavia, Romania, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Đức, Thụy Sĩ và Pháp. Chúng bị coi là loài xâm lấn ở nhiều khu vực. Ảnh: Wikipedia.
Khu vực phía Bắc Việt Nam được công nhận là vùng phân bố của phân loài lửng chó Vân Nam. Số lượng lửng chó ở Việt Nam không còn nhiều, và có ít dữ liệu khoa học về loài vật này ở trong nước được công bố. Ảnh: The Mammal Society.
Mời quý độc giả xem video: Khi động vật hoang dã kêu cứu | VTV24.