Bầu cử bằng giọng nói là hình thức bầu cử phổ biến tại Mỹ những năm đầu tiên. Cho tới năm 1891, Kentucky là bang cuối cùng ở Mỹ sử dụng hình thức này. Trong ảnh, Tổng thống Abraham Lincoln nhậm chức năm 1861.Năm 1856, phiếu bầu giấy lần đầu được chính phủ quy chuẩn tại bang Victoria với tên Australian Secret Ballot (bỏ phiếu kín). Trên phiếu bầu có tên các ứng viên với ô chọn nằm kế bên còn kết quả được kiểm bằng tay. Massachusetts là bang đầu tiên tại Mỹ áp dụng rộng rãi hình thức bỏ phiếu giấy kín vào năm 1888.Năm 1889, Jacob Myer tại New York được cấp bằng sáng chế cho máy bỏ phiếu đòn bẩy (lever voting machine). Được gọi là Myers Automatic Booth, hệ thống này giúp giảm đáng kể thời gian bỏ phiếu, tránh gian lận. Đến những năm 1930, nó được sử dụng rộng rãi khắp các thành phố lớn tại Mỹ.Bỏ phiếu bằng máy đòn bẩy khá đơn giản. Mỗi ứng viên sẽ có một đòn bẩy trên máy. Các cử tri bầu cử bằng cách kéo đòn bẩy ứng với tên ứng viên được chọn. New York là bang cuối cùng ngừng sử dụng máy bỏ phiếu đòn bẩy vào năm 2009 theo lệnh của tòa án.Năm 1962, máy quét phiếu quang học được áp dụng lần đầu tại thành phố Kern, bang California với cách hoạt động tương tự máy chấm điểm bài thi. Cử tri sẽ chọn ứng viên bằng cách tô đen vị trí được đánh dấu trên phiếu. Máy quét sẽ đọc phiếu rồi lưu lại hình ảnh, phân tích và thống kê kết quả.Joseph Harris và William Rouverol sáng chế ra phiếu đục lỗ Votomatic vào năm 1965. Với hệ thống này, các cử tri sẽ đánh dấu lựa chọn bằng cách đục một lỗ trên phiếu bầu tại vị trí tương ứng của ứng viên.Đến ngày bầu cử vào tháng 11/1964, nhiều quận hạt tại bang Georgia đã áp dụng hệ thống phiếu đục lỗ. Ưu điểm của nó là phiếu có thể được đếm bằng máy tính rồi thống kê kết quả trong ngày bầu cử.McKay, Ziebold và Kirby đã phát triển hệ thống bỏ phiếu điện tử trực tiếp, còn lại là Video Voter.Năm 1977, James Narey và William Saylor được cấp bằng sáng chế cho mô hình máy bầu cử quét quang học mà chúng ta sử dụng ngày nay.Cuộc bầu cử chính phủ đầu tiên qua Internet tại Mỹ là cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Cải cách năm 1996 bên cạnh hình thức bỏ phiếu qua thư và điện thoại.Năm 2002, cựu Tổng thống George W. Bush ký đạo luật quy định các tiêu chuẩn cao hơn với thiết bị bỏ phiếu được sử dụng trong các cuộc bầu cử. Ông Bush còn khởi động Help America Vote Act (HAVA), chương trình khuyến khích các bang ngừng sử dụng hệ thống phiếu đục lỗ.Cựu Tổng thống Bush cho rằng màn hình cảm ứng sẽ là tương lai của việc bỏ phiếu. Đầu những năm 2000, nhiều bang tại Mỹ đã áp dụng hình thức bỏ phiếu điện tử qua màn hình cảm ứng.Mỗi cử tri được khởi tạo hồ sơ bầu cử riêng để tránh bỏ phiếu nhiều lần. Dữ liệu phiếu bầu được ghi lại trong bộ nhớ máy và có thể sao chép ra ngoài để kiểm tra.Tuy nhiên, lỗ hổng của hình thức này nằm ở bảo mật. Cuộc bầu cử năm 2004 và 2016 đã gặp lỗi do các cuộc tấn công của Hacker vào hệ thống bầu cử này.Năm 2020, do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 nên Mỹ áp dụng nhiều hình thức bầu cử như bỏ phiếu điện tử hoặc qua bưu điện, sử dụng phiếu quét quang học.
Bầu cử bằng giọng nói là hình thức bầu cử phổ biến tại Mỹ những năm đầu tiên. Cho tới năm 1891, Kentucky là bang cuối cùng ở Mỹ sử dụng hình thức này. Trong ảnh, Tổng thống Abraham Lincoln nhậm chức năm 1861.
Năm 1856, phiếu bầu giấy lần đầu được chính phủ quy chuẩn tại bang Victoria với tên Australian Secret Ballot (bỏ phiếu kín). Trên phiếu bầu có tên các ứng viên với ô chọn nằm kế bên còn kết quả được kiểm bằng tay. Massachusetts là bang đầu tiên tại Mỹ áp dụng rộng rãi hình thức bỏ phiếu giấy kín vào năm 1888.
Năm 1889, Jacob Myer tại New York được cấp bằng sáng chế cho máy bỏ phiếu đòn bẩy (lever voting machine). Được gọi là Myers Automatic Booth, hệ thống này giúp giảm đáng kể thời gian bỏ phiếu, tránh gian lận. Đến những năm 1930, nó được sử dụng rộng rãi khắp các thành phố lớn tại Mỹ.
Bỏ phiếu bằng máy đòn bẩy khá đơn giản. Mỗi ứng viên sẽ có một đòn bẩy trên máy. Các cử tri bầu cử bằng cách kéo đòn bẩy ứng với tên ứng viên được chọn. New York là bang cuối cùng ngừng sử dụng máy bỏ phiếu đòn bẩy vào năm 2009 theo lệnh của tòa án.
Năm 1962, máy quét phiếu quang học được áp dụng lần đầu tại thành phố Kern, bang California với cách hoạt động tương tự máy chấm điểm bài thi. Cử tri sẽ chọn ứng viên bằng cách tô đen vị trí được đánh dấu trên phiếu. Máy quét sẽ đọc phiếu rồi lưu lại hình ảnh, phân tích và thống kê kết quả.
Joseph Harris và William Rouverol sáng chế ra phiếu đục lỗ Votomatic vào năm 1965. Với hệ thống này, các cử tri sẽ đánh dấu lựa chọn bằng cách đục một lỗ trên phiếu bầu tại vị trí tương ứng của ứng viên.
Đến ngày bầu cử vào tháng 11/1964, nhiều quận hạt tại bang Georgia đã áp dụng hệ thống phiếu đục lỗ. Ưu điểm của nó là phiếu có thể được đếm bằng máy tính rồi thống kê kết quả trong ngày bầu cử.
McKay, Ziebold và Kirby đã phát triển hệ thống bỏ phiếu điện tử trực tiếp, còn lại là Video Voter.
Năm 1977, James Narey và William Saylor được cấp bằng sáng chế cho mô hình máy bầu cử quét quang học mà chúng ta sử dụng ngày nay.
Cuộc bầu cử chính phủ đầu tiên qua Internet tại Mỹ là cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Cải cách năm 1996 bên cạnh hình thức bỏ phiếu qua thư và điện thoại.
Năm 2002, cựu Tổng thống George W. Bush ký đạo luật quy định các tiêu chuẩn cao hơn với thiết bị bỏ phiếu được sử dụng trong các cuộc bầu cử. Ông Bush còn khởi động Help America Vote Act (HAVA), chương trình khuyến khích các bang ngừng sử dụng hệ thống phiếu đục lỗ.
Cựu Tổng thống Bush cho rằng màn hình cảm ứng sẽ là tương lai của việc bỏ phiếu. Đầu những năm 2000, nhiều bang tại Mỹ đã áp dụng hình thức bỏ phiếu điện tử qua màn hình cảm ứng.
Mỗi cử tri được khởi tạo hồ sơ bầu cử riêng để tránh bỏ phiếu nhiều lần. Dữ liệu phiếu bầu được ghi lại trong bộ nhớ máy và có thể sao chép ra ngoài để kiểm tra.
Tuy nhiên, lỗ hổng của hình thức này nằm ở bảo mật. Cuộc bầu cử năm 2004 và 2016 đã gặp lỗi do các cuộc tấn công của Hacker vào hệ thống bầu cử này.
Năm 2020, do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 nên Mỹ áp dụng nhiều hình thức bầu cử như bỏ phiếu điện tử hoặc qua bưu điện, sử dụng phiếu quét quang học.