1. Bambiraptor. Bambiraptor thuộc chi khủng long Dromaeosauridae nhỏ, từng sống cách đây 72-75 triệu năm vào cuối kỳ Phấn Trắng ở Bắc Mỹ. Cái tên của chúng lấy cảm hứng từ nhân vật chú nai Bambi cũng vì có kích thước nhỏ tương tự. Giả thiết khác là tên chúng lấy cảm hứng từ từ "bambino", có nghĩa là "đứa trẻ" trong tiếng Ý.Mẫu vật gần như hoàn chỉnh ban đầu của Bambiraptor dài chưa tới 1m. Mẫu vật Bambiraptor này có chiều dài cơ thể xác định là 0.9 m và cân nặng ước đoán là 2 kg, vậy nên kích thước cơ thể của chúng lúc trưởng thành dài khoảng 1.3 m và nặng 5 kg. Chúng có hai chi sau rất phát triển nên là một loài có khả năng chạy rất nhanh.Nghiên cứu còn cho thấy hai chi trước của Bambiraptor cũng phát triển các ngón tay tới mức chúng có thể dùng ngón tay của mình để giữ thức ăn rồi mới cho vào miệng và chúng cũng có IQ cao hơn so với phần lớn các loài khủng long Dromaeosauridae khác, có thể bằng với cả những loài chim hiện đại ngày nay.2. Deinonychus. Khác với những loài khủng long khác vốn dựa vào bộ hàm sắc nhọn, giống như cái tên của mình, Deinonychus lại thích tận dụng bộ móng vuốt của nó hơn.Về cơ bản, khủng long Deinonychus là những cỗ máy giết người thực sự. Chúng hoành hành khắp chốn vào kỉ Creta tại Bắc Mỹ và đi săn mồi thành từng đàn, với mục tiêu ưa thích là những con Tenontosaurus nặng cỡ 2 tấn. Với chiều dài từ 3 đến 4 m, nặng 75 kg, nó xứng đáng là 1 trong những loài khủng long đáng sợ nhất.3. Rahonavis. Rahonavis là một chi khủng long chim từng sống cách đây 70 triệu năm ở Tây Bắc Madagascar, châu Phi vào cuối kỷ Phấn Trắng. Đây là một loài khủng long săn mồi nhỏm, chỉ dài khoảng 70 cm và nặng khoảng 0.45-2.27 kg.Đặc biệt, chúng có móng vuốt hình liềm nhô lên ở ngón thứ hai giống với loài Velociraptor nổi tiếng. Tuy nhiên hiện vẫn chưa rõ chúng thuộc chi Avialae hay Dromaeosauridae. Rahonavis có thể là họ hàng gần với Archaeopteryx, theo như đề xuất ban đầu của các nhà mô tả, và do đó chúng là một thành viên của chi Avialae.Rahonavis có lẽ cũng là họ hàng gần của các loài như Overoraptor, Unenlagia và Buitreraptor và to hơn 20% so với Archaeopteryx. Vì vậy, loài này được cho là cũng có khả năng bay, tuy nhiên vẫn còn khá vụng về hơn các loài chim hiện đại.3. Utahraptor. Đây loài khủng long được xem là một trong những kẻ săn mồi lớn nhất khi còn sống. Utahraptor sống vào hậu của Kỷ Phấn Trắng, cách đây khoảng 125 triệu năm, còn được gọi là kẻ săn mồi của Utah (Một địa danh của Bắc Mĩ). Tên của nó được đặt dựa trên tên tiểu bang mà nó được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1991.Utahraptor nặng tới gần 300kg với chiều dài lên tới 7m. Utahraptor cũng là một trong những loài dromaeosaur sớm nhất. Thiết kế khung xương của nó là giống chim; với xương đã rỗng, nhưng mạnh mẽ. Hàm có cấu tạo bất thường nhất, với mặt trước của hàm dưới cong về phía trước.Ngày nay, hầu hết các nhà cổ sinh vật học đều đồng ý rằng những con khủng long ăn thịt của kỷ nguyên Mesozoi đều sở hữu máu nóng, chính vì thế Utahraptor không phải ngoại lệ. Chúng là một động vật săn mồi lớn, có lông vũ. Khủng long săn mồi Utah Utahraptor gần như là sinh vật máu nóng nhất.5. Velociraptor. Khủng long móng vuốt Velociraptor được cho là một trong những loài khủng long săn mồi tích cực vô cùng quan trọng trong kỷ Creta muộn. Khủng long móng vuốt Velociraptor có lẽ là một trong những loài dromaeosaurid được biết đến nhiều nhất qua một số mẫu vật được khai quật.Tuy kích thước so với những loài khủng long săn mồi khác là quá nhỏ, nhưng chúng lại thừa hưởng được một sức mạnh vô cùng đáng kể với những đặc điểm và đời sống vô cùng đặc biệt. Velociraptors có kích thước khá khiêm tốn và chỉ nặng khoảng 45kg.Chúng cũng có lông bao phủ khắp cơ thể và có khả năng là những kẻ săn mồi đơn độc, chúng dùng móng vuốt lớn kẹp chặt con mồi xuống đất, giống như cách các loài chim săn mồi ngày nay vẫn làm. Loài Velociraptor cũng có khứu giác và thị giác vô cùng nhạy bén, chúng có thể là loài hoạt động về đêm.Đây cũng là loài có tốc độ rất nhanh, với vận tốc 40 km/h, và tất nhiên tốc độ này không thể nhanh bằng những gì thể hiện trên phim ảnh. Tuy vậy, nhờ lực nâng giữa các bước sải chân rộng, dài có thể giúp chúng tóm được con mồi rất nhanh chóng.Mời quý độc giả xem vide3o: Rắn Khổng Lồ Này Có Thể Là Nguyên Nhân Khiến Khủng Long Tuyệt Chủng. Nguồn: Soi sáng.
1. Bambiraptor. Bambiraptor thuộc chi khủng long Dromaeosauridae nhỏ, từng sống cách đây 72-75 triệu năm vào cuối kỳ Phấn Trắng ở Bắc Mỹ. Cái tên của chúng lấy cảm hứng từ nhân vật chú nai Bambi cũng vì có kích thước nhỏ tương tự. Giả thiết khác là tên chúng lấy cảm hứng từ từ "bambino", có nghĩa là "đứa trẻ" trong tiếng Ý.
Mẫu vật gần như hoàn chỉnh ban đầu của Bambiraptor dài chưa tới 1m. Mẫu vật Bambiraptor này có chiều dài cơ thể xác định là 0.9 m và cân nặng ước đoán là 2 kg, vậy nên kích thước cơ thể của chúng lúc trưởng thành dài khoảng 1.3 m và nặng 5 kg. Chúng có hai chi sau rất phát triển nên là một loài có khả năng chạy rất nhanh.
Nghiên cứu còn cho thấy hai chi trước của Bambiraptor cũng phát triển các ngón tay tới mức chúng có thể dùng ngón tay của mình để giữ thức ăn rồi mới cho vào miệng và chúng cũng có IQ cao hơn so với phần lớn các loài khủng long Dromaeosauridae khác, có thể bằng với cả những loài chim hiện đại ngày nay.
2. Deinonychus. Khác với những loài khủng long khác vốn dựa vào bộ hàm sắc nhọn, giống như cái tên của mình, Deinonychus lại thích tận dụng bộ móng vuốt của nó hơn.
Về cơ bản, khủng long Deinonychus là những cỗ máy giết người thực sự. Chúng hoành hành khắp chốn vào kỉ Creta tại Bắc Mỹ và đi săn mồi thành từng đàn, với mục tiêu ưa thích là những con Tenontosaurus nặng cỡ 2 tấn. Với chiều dài từ 3 đến 4 m, nặng 75 kg, nó xứng đáng là 1 trong những loài khủng long đáng sợ nhất.
3. Rahonavis. Rahonavis là một chi khủng long chim từng sống cách đây 70 triệu năm ở Tây Bắc Madagascar, châu Phi vào cuối kỷ Phấn Trắng. Đây là một loài khủng long săn mồi nhỏm, chỉ dài khoảng 70 cm và nặng khoảng 0.45-2.27 kg.
Đặc biệt, chúng có móng vuốt hình liềm nhô lên ở ngón thứ hai giống với loài Velociraptor nổi tiếng. Tuy nhiên hiện vẫn chưa rõ chúng thuộc chi Avialae hay Dromaeosauridae. Rahonavis có thể là họ hàng gần với Archaeopteryx, theo như đề xuất ban đầu của các nhà mô tả, và do đó chúng là một thành viên của chi Avialae.
Rahonavis có lẽ cũng là họ hàng gần của các loài như Overoraptor, Unenlagia và Buitreraptor và to hơn 20% so với Archaeopteryx. Vì vậy, loài này được cho là cũng có khả năng bay, tuy nhiên vẫn còn khá vụng về hơn các loài chim hiện đại.
3. Utahraptor. Đây loài khủng long được xem là một trong những kẻ săn mồi lớn nhất khi còn sống. Utahraptor sống vào hậu của Kỷ Phấn Trắng, cách đây khoảng 125 triệu năm, còn được gọi là kẻ săn mồi của Utah (Một địa danh của Bắc Mĩ). Tên của nó được đặt dựa trên tên tiểu bang mà nó được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1991.
Utahraptor nặng tới gần 300kg với chiều dài lên tới 7m. Utahraptor cũng là một trong những loài dromaeosaur sớm nhất. Thiết kế khung xương của nó là giống chim; với xương đã rỗng, nhưng mạnh mẽ. Hàm có cấu tạo bất thường nhất, với mặt trước của hàm dưới cong về phía trước.
Ngày nay, hầu hết các nhà cổ sinh vật học đều đồng ý rằng những con khủng long ăn thịt của kỷ nguyên Mesozoi đều sở hữu máu nóng, chính vì thế Utahraptor không phải ngoại lệ. Chúng là một động vật săn mồi lớn, có lông vũ. Khủng long săn mồi Utah Utahraptor gần như là sinh vật máu nóng nhất.
5. Velociraptor. Khủng long móng vuốt Velociraptor được cho là một trong những loài khủng long săn mồi tích cực vô cùng quan trọng trong kỷ Creta muộn. Khủng long móng vuốt Velociraptor có lẽ là một trong những loài dromaeosaurid được biết đến nhiều nhất qua một số mẫu vật được khai quật.
Tuy kích thước so với những loài khủng long săn mồi khác là quá nhỏ, nhưng chúng lại thừa hưởng được một sức mạnh vô cùng đáng kể với những đặc điểm và đời sống vô cùng đặc biệt. Velociraptors có kích thước khá khiêm tốn và chỉ nặng khoảng 45kg.
Chúng cũng có lông bao phủ khắp cơ thể và có khả năng là những kẻ săn mồi đơn độc, chúng dùng móng vuốt lớn kẹp chặt con mồi xuống đất, giống như cách các loài chim săn mồi ngày nay vẫn làm. Loài Velociraptor cũng có khứu giác và thị giác vô cùng nhạy bén, chúng có thể là loài hoạt động về đêm.
Đây cũng là loài có tốc độ rất nhanh, với vận tốc 40 km/h, và tất nhiên tốc độ này không thể nhanh bằng những gì thể hiện trên phim ảnh. Tuy vậy, nhờ lực nâng giữa các bước sải chân rộng, dài có thể giúp chúng tóm được con mồi rất nhanh chóng.