Hành tinh của chúng ta chứa đầy những sinh vật đa dạng tuyệt đẹp, chúng giao phối với những sinh vật xấu xí để sinh sản. Mèo làm điều đó. Chó làm điều đó. Chim và ong chắc chắn làm điều đó và nhiều loài khác cũng tương tự. Nhưng những loài động vật đầu tiên giao phối với nhau là loài nào, liệu bạn có biết?
Động vật đã sinh sản hữu tính kể từ khi chúng tiến hóa, vì vậy những động vật đầu tiên giao phối là những động vật đầu tiên tồn tại. Các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm kiếm bằng chứng trực tiếp về những động vật đầu tiên, nhưng chúng có khả năng xuất hiện trong vòng 800 triệu năm trở lại đây, sống ở đại dương và trông giống như bọt biển.
Ảnh minh họa.
Theo trang web Exploring Our Fluid Earth do Đại học Hawaii quản lý, các loài bọt biển trong đại dương ngày nay sinh sản hữu tính bằng cách đẩy tinh trùng và trứng vào nước, sau đó kết hợp lại để tạo thành ấu trùng bọt biển mới.
Nhưng trong khi bọt biển cổ đại có thể là một trong những loài động vật đầu tiên sinh sản hữu tính, thì bản thân hành động này đã có từ lâu trước chúng. Đó là bởi vì các dạng sống đã giao phối với nhau trước khi động vật xuất hiện.
"Bằng chứng sớm nhất về sinh sản hữu tính bằng cách giao phối là từ loài cá da phiến ở kỷ Devon (419,2 triệu đến 358,9 triệu năm trước), như Microbrachius dicki ", John Long, giáo sư cổ sinh vật học tại Đại học Flinders ở Úc và là tác giả của cuốn " The Dawn of the Deed: The Prehistoric Origins of Sex "(Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2012), đã trả lời Live Science qua email.
Hóa thạch cho thấy con đực M. dicki có cặp móc để thụ tinh cho con cái bên trong, trong khi con cái có đĩa sinh dục đối ứng. Long và nhóm của ông phát hiện ra rằng con cá đực và con cá cái sẽ lơ lửng cạnh nhau trong quá trình giao phối với các chi giống như cánh tay của chúng được nối với nhau, vì vậy hành động tình dục đầu tiên sẽ trông giống như khiêu vũ vuông.
Sinh sản hữu tính có nhiều lợi ích. Trước hết, con cái nhận được gen từ cả cha và mẹ, không giống như sinh sản vô tính, trong đó con cái chỉ nhận được gen của một trong hai cha mẹ. Sự kết hợp gen này giúp động vật thích nghi tốt hơn với những thay đổi trong môi trường của chúng.
"Sinh sản hữu tính có nghĩa là cấu tạo di truyền của con cái đa dạng hơn so với các sinh vật vô tính chỉ tự nhân bản (như sứa), do đó, khả năng toàn bộ quần thể của loài dễ bị xóa sổ bởi các bệnh tật là rất thấp", Long cho biết. "Sự biến đổi lớn hơn này trong nhóm gen giúp tăng khả năng sống sót không chỉ chống lại các tác nhân gây bệnh mà còn đối với những thay đổi về môi trường, ví dụ như biến đổi khí hậu, hoặc thậm chí là khả năng chịu đựng độc tính hóa học tốt hơn nếu chẳng hạn như các vụ phun trào núi lửa làm thay đổi tính chất hóa học của nước biển".