Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” Đỗ Tử Bình là tướng nhà Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với cuộc chiến giữa Đại Việt với Chiêm Thành vào cuối thế kỷ 14. Theo thần phả trong di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia thì quê quán của Đỗ Tử Bình ở thôn Hưng Tứ, xã Hồng Việt, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Vào thời nhà Trần trị vì, vùng đất này thuộc tỉnh Nam Định ngày nay.
Năm 1348, Đỗ Tử Bình đang giữ chức Ngự tiền học sinh thì được triều đình bổ nhiệm làm Thị giảng. Tháng 7/1359, ông được thăng làm Tri khu mật viện sự. Năm 1362, biên giới phía Nam bắt đầu căng thẳng. Đỗ Tử Bình theo lệnh của vua Trần Dụ Tông đi duyệt bổ quân ở Lâm Bình, Thuận Hóa và đắp thành Hóa Châu. Năm 1367, vua Trần Dụ Tông cử Trần Thế Hưng làm Thống quân hành khiển đồng tri, Đỗ Tử Bình làm phó, mang quân đi đánh Chiêm Thành. Tháng 4 âm lịch năm 1368, quân Trần tiến vào Chiêm Động (vùng đất Quảng Nam ngày nay). Quân Chiêm đặt phục binh nên quân Trần rơi vào chỗ phục kích, bị thua trận. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát rồi mang theo tàn quân chạy về nước.
Năm 1376, vào thời vua Trần Duệ Tông trị vì, vua Chiêm Thành khi đó là Chế Bồng Nga mang quân xâm lấn Đại Việt. Vì thế, vua Trần Duệ Tông đã sai Đỗ Tử Bình cầm quân đi đánh. Chế Bồng Nga sợ hãi trước khí thế của quân Đại Việt và xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Nhưng Tử Bình giấu vàng đi và tâu về triều rằng vua Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Vì thế, vua Trần Duệ Tông đã nổi giận và quyết định thân chinh đi đánh. Tháng giêng năm 1377, quân Trần tiến tới kinh thành Đồ Bàn của nước Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ngoài thành, rồi cho người đến trá hàng và nói với Trần Duệ Tông rằng Chế Bồng Nga đã bỏ thành trốn. Nghe vậy, Trần Duệ Tông thúc quân tiến vào thành. Sau đó, quân Chiêm tứ phía phục binh đổ ra đánh. Quân Đại Việt không chống cự nổi, vua Trần Duệ Tông bị hãm trong vòng vây, rồi bị trúng tên và tử trận. Các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh cũng tử trận.
Đỗ Tử Bình lúc đó lĩnh hậu quân không tới cứu ứng vua Trần Duệ Tông. Lê Quý Ly cũng sợ hãi bỏ chạy. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai đem chiếc xe tù đi bắt Tử Bình. Khi Tử Bình về qua phủ Thiên Trường, người ta đua nhau chửi mắng, lấy gạch ngói ném vào xe tù Tử Bình. Thượng hoàng xuống chiếu trị tội nhưng miễn tử hình cho ông, chỉ bắt đi làm lính. Tuy nhiên không lâu sau, ông lại được phục chức. Tháng 5/1378, Chế Bồng Nga đưa hàng vương Trần Húc về nước, đánh cướp ở vùng Nghệ An. Tháng 6, quân Chiêm tiến vào cửa Đại Hoàng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phục chức cho Đỗ Tử Bình, sai ra chống giữ. Tử Bình đánh không lại và Chế Bồng Nga tiến vào Thăng Long lần thứ 3, bắt người cướp của rồi rút về.
Năm 1380, vua Chiêm lại dụ dân Tân Bình và Thuận Hóa đi cướp phá Nghệ An và tiến lên Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông lại sai Lê Quý Ly lĩnh quân thủy và Đỗ Tử Bình dẫn quân bộ ra chống. Tới tháng 5, quân Chiêm không đánh được phải rút lui. Từ sau trận đánh này, Đỗ Tử Bình cáo ốm, xin rút lui không giữ binh quyền nữa. Tháng 11 năm đó, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phong ông làm Nhập nội hành khiển tả tham tri chính sự, lĩnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang.
Khi đó, ở trong nước gặp khó khăn vì chiến tranh liên miên nhưng Đỗ Tử Bình đã kiến nghị với Thượng hoàng Trần Nghệ Tông theo phép thu thuế “dung” (thuế thân) của nhà Đường, tức là bắt đinh nam mỗi năm phải nộp ba quan tiền. Từ đầu thời nhà Trần đã có thuế đinh nhưng thực ra chỉ người có ruộng mới phải đóng. Đến đây, không cứ có ruộng hay không, mọi người đều phải chịu loại thuế này, chỉ có binh lính là được miễn. Từ đó, thuế đinh mới thêm nặng. Phép thu thuế này bất công, khiến mọi người phải đóng như nhau.
Sau khi nhận phong Nhập nội hành khiển tả tham tri chính sự được vài năm thì Đỗ Tử Bình chết. Cuộc đời ông hoạt động trong khoảng hơn 30 năm, trải qua 4 đời vua, từ thời Trần Dụ Tông đến Trần Phế Đế. Ông được vua Trần Nghệ Tông truy tặng làm Thiếu bảo và cho ông được tòng tự ở Văn Miếu, thờ chung với Chu Văn An và Trương Hán Siêu. Nhưng về sau, các thân sĩ không đồng tình với quyết định của vua Nghệ Tông nên tước bỏ Đỗ Tử Bình ra khỏi Văn Miếu.
Lời bàn:
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” nêu ý kiến của sử gia Phan Phu Tiên về Đỗ Tử Bình như sau: Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Đỗ Tử Bình được dự vào đó,... Tử Bình là hạng học nhảm chiều người, tham lam bòn vét, là kẻ gian thần hại nước, sao lại được len vào chỗ đó? Và sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” có nhận định về Đỗ Tử Bình như sau: Tội... người này đáng giết, không dung tha được; thế mà lại còn vẫn dùng! Chính sự nhà Trần không có kỷ cương trách nào chẳng vong.
Và với hậu thế ngày nay thì cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua Trần Nghệ Tông không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy. Một ông vua mà đằng trước có kẻ siểm nịnh nhưng không thấy, đằng sau có giặc cướp mà không hay thì quả là tai họa của nước nhà. Và chính những ông vua như vậy mới có những quyền thần như Đỗ Tử Bình, Lê Quý Ly. Cái giá mà triều đại nhà Trần phải trả sẽ mãi mãi là bài học hữu ích cho hậu thế.