Bát quái chưởng cùng với Tượng hình quyền, Nam quyền, Trường quyền, Thiếu Lâm quyền, Võ Đang quyền, Nga Mi quyền là 7 quyền pháp vang danh trong giới võ lâm Trung Hoa từ cổ chí kim. 7 quyền pháp trứ danh này được sử sách, văn học cũng như điện ảnh Hoa ngữ nhắc đến nhiều với sự tôn trọng bậc nhất. Đã có nhiều tác phẩm văn học cũng như điện ảnh võ thuật đề cập đến Bát quái chưởng.
|
Một đại cao thủ luyện Bát quái chưởng trên miệng thúng.
|
Về nguồn gốc Bát quái chưởng, do lịch sử lâu đời của nền võ học Trung Hoa nên truyền thuyết cũng khác nhau mà không được ghi chép trên bất cứ một văn tự nào. Có thuyết cho là do đạo nhân Bích Vân, Thanh Vân ở dải núi Nga Mi tại Tứ Xuyên truyền lại. Lại có thuyết cho là tiền thân của Bát quái chưởng là “Âm dương Bát quái chưởng” từng lưu truyền một dải Giang Nam. Có nhà nghiên cứu lại suy đoán từ “Lam Di ngoại sử - Tĩnh Biên ký”, có ghi: “Gia Khánh Đinh Tỵ (năm 1797 đời vua Thanh Nhân Tôn tức Ái Tân Giác La, làm vua từ 1796-1821) có người tên Vương Tường Giáo ở huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông miền Hoa Bắc dạy quyền pháp mà quyền đó là tiền thân của Bát quái chưởng”.
Theo khảo chứng là vào nửa cuối đời Thanh, danh quyền Đổng Hải Xuyên - một hoạn quan thời vua Gia Khánh ở thành Văn An, tỉnh Hà Bắc là người sáng tác ra Bát quái chưởng. Đời Thanh Hàm Phong (tức Thanh Thế Tôn 1851-1862) với máu giang hồ nghĩa hiệp, ông hành tẩu phương Nam, lê gót suốt một dải Giang Tô, An Huy, Tứ Xuyên… Có thời điểm tránh loạn lạc, ông ẩn vào núi, gặp đạo sĩ truyền dạy thuật khải thị (luyện về tầm hiểu biết siêu nhiên, nhìn trước được sự vật và dùng ngôn từ, động tác hàm súc để báo trước cho mọi người biết). Từ những thuật cao siêu của Đạo giáo đã lĩnh hội, khi xuống núi ông kết hợp với quyền thuật đã được tập luyện dần sáng tác ra Bát quái chưởng.
|
Những thế di chuyển theo vòng tròn đặc thù của Bát quái chưởng. |
Năm Đồng Trị thứ 4 (đời Thanh Mục Tôn Tải Thuần, làm vua từ 1862-1875) Đổng Hải Xuyên đến kinh sư, ban đầu sung vào làm hoạn quan trong cung nhà Thanh, khi làm việc thường lộ bản chất nghĩa khí, anh hùng mã thượng, không nhận hối lộ nên những người cùng làm hay gièm pha, ông xin đổi sang phủ Thân vương Lục Túc (phủ Túc Vương) nhận chức thủ lĩnh vệ quân trông coi phủ, quan hàm Thất phẩm. Sau một năm, ông thu nhận học trò dạy võ Bát quái chưởng.
Hệ thống quyền này cực giống thuật đạo dẫn chạy quanh vòng tròn “chuyển Thiên tôn” của Đạo giáo của quyền thuật Võ Đang với phương pháp công, phòng trong võ thuật dung hợp thành hình thức vận động cơ bản, chọn dùng “Dịch lý” để luận thuật về quy luật vận động của quyền thuật, hình thành nên lý luận cơ bản của Bát quái chưởng là: “Lấy động làm gốc, lấy biến làm phép (đánh)”. Khoảng năm 1866, Đổng Hải Xuyên lúc đó là môn khách phủ Túc Vương ở Bắc Kinh truyền dạy Bát quái chưởng thì môn này nhanh chóng phát triển khắp Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc rồi dần truyền bá đi khắp nơi.
|
Các tư thế đặc thù trong mô hình Bát quái chưởng.
|
Bát quái chưởng là quyền thuật lấy các chiêu thuật công, phòng và phương pháp dẫn đạo dung hợp với cách bước chuyển theo đường tròn. Những người tập chủ yếu lấy bước vòng tròn xoay chưởng giống đường nối liền tám phương vị trong bát quái.
Bát quái chưởng còn gọi là Bát quái chuyển chưởng, Du thân Bát quái chưởng, Âm dương Bát quái chưởng hay Bát quái liên hoàn chưởng… Bát quái chưởng chú trọng ngang dọc cắt nhau, tuỳ bước, tuỳ biến. Lối đánh dựa trên sự gặp thời cơ thì ứng biến, lấy biến ứng với biến, hợp với “Cứng mềm mài nhau, bát quái vẫy động” trong Chu Dịch, tức là luôn vận động không ngơi, biến hoá không ngừng.
Bát quái chưởng có đơn luyện, đối luyện và tán đả lôi đài (giao đấu). Căn cứ trên quyền phổ thì hệ quyền của Bát quái chưởng thường có 18 đường La Hán thủ, 72 ám cước (đòn đá ngầm), 72 tiệt thoái (chặt chân). Hệ khí giới của Bát quái chưởng có Tý Ngọ uyên ương việt (Búa uyên ương Tý Ngọ), Kê trảo âm dương nhuệ (Vuốt chân gà âm dương), Phong hoả luân (Bánh xe gió lửa), Phán quan bút… là các loại binh khí đôi dạng ngắn, nhỏ. Ngoài ra còn có gậy Thất tinh trong có đổ thuỷ ngân (để cho nặng và biến hoá linh hoạt) và các khí giới lớn, nặng như Bát quái đao, Bát quái thương và Bát quái kiếm.
Đặc điểm vận động của Bát quái chưởng là thân nhanh, bước linh, tuỳ bước tuỳ biến, khi giao đấu với đối thủ thì thân hình nhô, hụp, vặn, xoay mau lẹ, đa biến. Quyền phổ ghi: “ Hình như rồng lượn, hình như vượn giữ, ngồi như hổ ngồi, liệng như ưng liệng”. Đường di chuyển của dấu chân bước xoay chia ra chạy theo hình cá âm dương, chạy theo hình vẽ Bát quái (có 2 kiểu hình vẽ Bát quái là Tiên thiên Bát quái của Phục Hy và Hậu thiên Bát quái của Chu Văn Vương).
Thân hình yêu cầu thẳng cổ, đứng hông hạ mông, lỏng vai xuôi khuỷu, giữ nguyên bụng, thoải mái ngực, co háng, nâng bụng dưới. Yêu cầu bộ pháp lên xuống vững vàng, khép mở rõ ràng, thực hư rành rọt. Khi bước tròn, chân trong tiến thẳng, chân ngoài khép vào trong, hai đầu gối ôm nhau không được mở hạ bộ. Thân pháp coi trọng vặn, xoay, chuyển, lật tròn vòng không ngắc ngứ, di chuyển và triển khai quyền pháp phải như nước chảy, mây trôi.
Về hình tay thì có long trảo chưởng (chưởng móng rồng), ngưu thiệt chưởng (chưởng lưỡi trâu)… Thủ pháp chủ yếu bao gồm: Đẩy, nâng, kéo, dẫn, dời, ngăn, cắt, khép, bắt, tóm, móc, đánh, gói, đóng, né… tổng cộng mười sáu phép. Mỗi chưởng phát ra phải lấy hông làm trục xoay, toàn thân là một thể, nội ngoại hợp nhau. Ngoài chú trọng: Tay, mắt, chân, bộ pháp, trong tu dưỡng: Tâm, thần, ý, khí, lực.
Luyện tập Bát quái chưởng chia ra 3 bước công phu: Định giá tử (giàn giá của quyền chưởng), Hoạt giá tử (sử dụng linh hoạt giàn giá) và Biến (hoá) giá tử.
Định giá tử là công phu cơ bản, yêu cầu một chiêu, một thức phải đều đặn, quy củ, cốt sao tư thế chính xác, bước đi vững vàng, chậm rãi, làm cho được “9 yêu cầu nhập môn”, bao gồm:
1. Tạ (xệ, hông).
2. Khấu (khép; hóp ngực lại).
3. Đế (nâng lên; nâng huyệt Vĩ lư, nâng trong Cốc đạo: Vĩ lư là huyệt nằm dưới thắt lưng, trên xương cùng, nơi tập trung nội lực; Cốc đạo là đường tiêu hoá kể từ hậu môn trở lên).
4. Đỉnh (đẩy lên; đẩy đầu lên chỏm, đẩy lưỡi lên vòm họng, đẩy tay ra trước).
5. Khoả (quấn tròn; quấn tay).
6. Tùng (thả lỏng; lỏng vai, trầm khí xuống).
7. Thuỳ (xuôi; xuôi khuỷu tay).
8. Xúc (co; co cơ khớp háng, co trong bả vai).
9. Khởi toản lạc phan (lên dùi xuống lật); nghiêm cấm ưỡn ngực phưỡn bụng, nổi giận, thô lỗ vụng về.
Còn lại, Hoạt giá tử chủ yếu luyện tập động tác phối hợp hợp điệu khiến các yếu lĩnh cơ bản trong khi chuyển chạy biến hoá phải vận dụng thành thạo. Biến giá tử yêu cầu nội ngoại phải thống nhất, ý dẫn thân theo, biến đổi tự nhiên, làm sao để nhẹ như lông ngỗng, biến như điện chớp, vững như bàn thạch.
Nội dung cơ bản của Bát quái chưởng là Bát mẫu chưởng (Tám chưởng mẹ) hay còn gọi là Lão bát chưởng (Tám chưởng già) nhưng các nơi lưu truyền không giống nhau. Cụ thể là lấy tám hình làm đại biểu là sư (sư tử), lộc (hươu), xà (rắn), dao (diều hâu), long (rồng), phượng, hầu (khỉ), hùng (gấu), ngoài ra cũng dùng Song chàng chưởng (Chưởng đâm cả hai tay), Du long chưởng (Chưởng lắc thân), Xuyên chưởng (Chưởng xuyên), Khiêu chưởng (Chưởng khều)… là nội dung cơ bản của tám chưởng. Tuy vậy mỗi chưởng pháp trên lại diễn hoá ra rất nhiều chưởng pháp, theo kiểu một chưởng lại sinh ra tám chưởng, thành tám lần tám sáu mươi tư chưởng.