Trước năm 1954, chưa từng có cuộc thi hoa hậu nào diễn ra trên đất Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Người ta chỉ tổ chức các cuộc thi người đẹp tại các chợ phiên để chọn ra hoa khôi. Ở Hà Nội, từ năm 1902 đến năm 1941 có 15 cuộc thi người đẹp nhưng ngoài các hoa khôi, đất Kinh kỳ còn có rất nhiều giai nhân.
12 hoa khôi
Chào mừng Hà Nội trở thành Thủ đô của Liên bang Đông Dương và khuếch trương sự phát triển của thuộc địa, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (1897-1902) đã tổ chức hội chợ rất lớn tại phố Gambetta (nay là Cung VHLĐ Việt - Xô) từ tháng 11/1902 đến tháng 1/1903 với nhiều quốc gia trong vùng và trên thế giới tham gia.
Ngoài các gian trưng bày sản vật, hội chợ còn có quán bán cà phê, rượu; ban tổ chức đã bày ra rất nhiều trò chơi như: Leo cột mỡ, bịt mắt đập niêu và đặc biệt là thi người đẹp. Chương trình hội chợ ghi rõ "Thứ hai ngày 19/1/1903 vào 10 giờ sáng có 2 cuộc thi: Người đẹp và người xấu dành cho người bản xứ. Giải nhất mỗi cuộc thi là 50 đồng, giải nhì 25 đồng và giải khuyến khích 15 đồng" (1 tạ gạo thời điểm này là 3 đồng).
|
Thiếu nữ Hà thành xưa.
|
Dù Hà Nội là nhượng địa, sống theo luật của Pháp nhưng ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống xã hội vẫn rất nặng nề, nên dù Đốc lý Hà Nội là Baille Frédéric đã sức cho các phố trưởng cử các cô gái xinh đẹp chưa chồng dự thi nhưng không cô gái nào dám tham gia.
Cuộc thi cũng rất đơn giản, người tham gia mặc áo dài, vấn tóc đuôi gà, đi vài vòng trên sân khấu để ban giám khảo chấm điểm. Người đẹp nhất đạt danh hiệu hoa khôi. Đây là cuộc thi người đẹp đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên thời đó rất ít báo và Hà Nội chưa có báo tiếng Việt nên không biết ai giành vương miện hoa khôi.
Sau hội chợ năm 1902, mãi đến năm 1918 chính quyền mới tổ chức lần thứ hai nhưng không ở cấp độ toàn xứ Đông Dương mà chỉ là chợ phiên cấp độ thành phố do Đốc lý Hà Nội Jobouille Edmond (nắm quyền từ ngày 8/2/1917 đến 24/5/1919) tổ chức. Chợ phiên diễn ra từ ngày 15 đến 30 tháng 12 năm 1918 và có thi người đẹp.
Hai năm tiếp theo, năm 1919 và 1920, Hà Nội tiếp tục tổ chức chợ phiên và không thể thiếu thi người đẹp vì nó thu hút rất đông dân chúng đến xem. Đến năm 1922, người ta lại tổ chức hội chợ của xứ Đông Dương tại Hà Nội. Sau đó từ các năm 1923 đến 1927 thì tổ chức ở Sài Gòn nên tham gia cuộc thi người đẹp chủ yếu là các cô gái ở thành phố này. Năm 1928, Hà Nội định tổ chức chợ phiên nhưng sau đó do suy thoái kinh tế thế giới nên đành phải bỏ.
Mặt trận Dân chủ thắng thế tại chính trường nước Pháp nên năm 1936, rất nhiều tỉnh, thành của Việt Nam như: Hà Đông, Nam Định đã tổ chức thi người đẹp tại các chợ phiên. Người đoạt danh hiệu hoa khôi Hà Nội trong cuộc thi người đẹp năm 1938 là Trần Thị Thành, cháu ngoại của nhà tư sản Hưng Ký, ông chủ của các nhà máy gạch nổi tiếng Đông Dương. Cuộc thi này đã có những thay đổi lớn là thí sinh hoàn toàn tự nguyện.
Ngoài mặc trang phục truyền thống, thí sinh còn mặc các trang phục do các nhà may thiết kế. Người giành danh hiệu hoa khôi được món tiền khá lớn và đứng trong lồng kính cho mọi người ngắm trong vòng 1 tiếng ở Bờ Hồ.
Năm 1939, nổ ra Chiến tranh thế giới lần thứ II, cuối năm 1940, Nhật đưa quân vào Hà Nội, hàng hóa nhập khẩu khan hiếm, để khuyến khích sản xuất trong nước, năm 1941, chính quyền thành phố đã tổ chức chợ phiên ở Ấu Trĩ Viên (nay là Cung Thiếu nhi). Giành danh hiệu hoa khôi tại cuộc thi người đẹp trong hội chợ này là cô Tân.
Cô Tân học ở Trường nữ Hàng Cót từng hút hồn thanh niên Hà Nội nhất là khi cô mặc đồ bơi, bơi ở bể bơi Quảng Bá. Cô chính là mẹ ca sĩ Khánh Ly nổi tiếng với những ca khúc của Trịnh Công Sơn. Tính từ cuộc thi người đẹp năm 1902 cho đến cuộc thi cuối cùng năm 1941, Hà Nội có tất cả 12 hoa khôi.
Và giai nhân
Cùng với các hoa khôi, Hà Nội xưa có rất nhiều giai nhân trong đó người ta hay bàn tán về "Hà thành tứ mỹ" gồm: Cô Bính Hàng Đẫy, cô Nga Hàng Gai, cô Síu Cột Cờ và cô Phượng Hàng Ngang.
Trong hồi ký "Những năm tháng ấy", nhà văn Vũ Ngọc Phan (1902-1987) viết: "Năm tôi 13… cô Phượng người tầm thước có đôi mắt bồ câu long lanh mũi dọc dừa thanh tú và đôi má lúm đồng tiền khi cười, khuôn mặt trái xoan quyến rũ giống như diễn viên điện ảnh Marlen Dietrich thời bấy giờ. Cô Phượng ăn mặc rất nền, như phụ nữ Hà Nội thời xưa khi thì chít khăn nhiễu tam giang khi thì chít khăn nhiễu nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc…". Là người tài hoa, yêu văn thơ, việc cô Phượng bỏ chồng trốn nhà đi theo nhà báo Hoàng Tích Chu, tay chơi số một những năm 1930 ầm ĩ cả Hà Nội…
Khác hẳn với cô Phượng, cuộc sống của giai nhân Đỗ Thị Bính có phần bình dị hơn. Cô là con của nhà tư sản Đỗ Lợi, nổi tiếng về thầu khoán. Lớn lên trong nhung lụa nhưng Đỗ Thị Bính nền nã đã làm trái tim của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp (con trai học giả Nguyễn Văn Vĩnh) rung động. Đỗ Thị Bính cũng biết nhà thơ trẻ có tình ý với mình nhưng không có duyên với nhau và Nguyễn Nhược Pháp mệnh bạc đã ra đi ở tuổi 24.
Giai nhân Đỗ Thị Bính đã kết hôn với kỹ sư Bùi Tường Viên (em trai út của luật sư nổi tiếng Bùi Tường Chiểu) du học ở Pháp về. Năm 1947, đi tản cư cùng gia đình, được bác sĩ Bùi Xuân Tám (em ruột họa sĩ Bùi Xuân Phái) dạy cho cách tiêm thuốc chống sốt rét nên Đỗ Thị Bính đã tiêm cho rất nhiều người, cứu họ thoát khỏi cơn sốt rét hiểm nghèo. Sau 1954, Đỗ Thị Bính công tác tại Phòng Giáo dục khu Hai Bà Trưng và nghỉ hưu năm 1970.
Cuối những năm 1920, rạp Sán Nhiên Đài ở phố Đào Duy Từ có một cô đào đẹp nổi tiếng chuyên đóng các vai đào thương là đào Tửu. Không chỉ đẹp, đào Tửu hát chèo rất hay vì thế cánh thanh niên ngày nào cũng mua vé vào rạp vừa nghe cô hát vừa ngắm cô.
Hà Nội còn có hai giai nhân nổi tiếng cuối những năm 1930 và đầu 1940 là Ái Liên (sau là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng) và Lý Lệ Hà. Ái Liên có khuôn mặt đẹp và sang trọng vì thế họa sĩ Cát Tường đã mời cô quảng bá áo dài Lemur do ông sáng tạo. Còn Lý Lệ Hà là người mẫu cho hiệu áo dài Marie Nghi Xương (phố Nhà Thờ), sau đó trở thành người tình của vua Bảo Đại.