Ai dễ bị suy tĩnh mạch mạn tính?

Google News

Theo thống kê, bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chiếm 1% ở nam giới và 4,5% nữ giới ở tuổi trưởng thành. Trong đó, hơn 70% là nữ và khoảng 35% ở những người đang làm việc.

Biến chứng của suy tĩnh mạch

Tùy theo vị trí và nguyên nhân của tổn thương bệnh giãn tĩnh mạch chi dưới được chia làm 4 nhóm. Bao gồm nhóm giãn tĩnh mạch tiên phát hay còn gọi là giãn tĩnh mạch vô căn. Trong nhóm này, ban đầu các tĩnh mạch bị giãn và dài ra sau đó các van tĩnh mạch mất dần chức năng.

Nhóm giãn tĩnh mạch thứ phát, thường do viêm tĩnh mạch. Ở nhóm này các van tĩnh mạch bị mất chức năng trước, sau đó các tĩnh mạch mới bị giãn và dài ra.

Ai de bi suy tinh mach man tinh?
Bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chiếm 1% ở nam giới và 4,5% nữ giới ở tuổi trưởng thành. Ảnh minh họa

Giãn tĩnh mạch ở người có thai do tác dụng của nội tiết tố sinh dục nữ và chèn ép của tử cung bị to ra khi có thai.

Giãn tĩnh mạch bẩm sinh, nguyên nhân do bất thường của thành tĩnh mạch làm nghẹt tĩnh mạch sâu và dò động tĩnh mạch (dạng u máu hỗn hợp).

Suy tĩnh mạch trước tiên gây các biến chứng về rối loạn huyết động học: cẳng chân bệnh nhân bị sưng to, có triệu chứng đau buốt mặt sau cẳng chân, chuột rút về đêm.

Tình trạng nặng hơn, bệnh nhân có thể bị viêm tắc tĩnh mạch, chân nóng, sưng đỏ, các tĩnh mạch nông nổi rõ và viêm cứng.

Ở giai đoạn cuối cùng, bệnh có thể diễn tiến đến tình trạng giãn to toàn bộ hệ tĩnh mạch. Các tĩnh giãn rất lớn, ứ trệ tuần hoàn và rối loạn dinh dưỡng của da chân phía dưới gây viêm loét, nhiễm trùng rất khó điều trị.

Các cục thuyên tắc có thể tách rời khỏi thành tĩnh mạch, đi về tim và gây thuyên tắc động mạch phổi, một biến chứng rất nặng có thể đưa đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời.

Ai có nguy cơ mắc suy tĩnh mạch?

Di truyền là mẫu số chung cho những bệnh nhân suy tĩnh mach, nguyên nhân là do những thay đổi về enzyme trong mô liên kết.

Nữ thường bị nhiều hơn nam do ảnh hưởng của nội tiết tố nữ, thai nghén, do phải đứng lâu trong một số ngành nghề đặc biệt như bán hàng, thợ dệt, do khối lượng cơ thấp hoặc dùng giày không thích hợp.

Tăng trọng quá mức cũng là một yếu tố nguy cơ vì lực tác động từ phía trước để hút máu về bị giảm và các dòng trào ngược ly tâm phát sinh do gia tăng áp lực từ ổ bụng.

Thuốc ngừa thai cũng là một yếu tố nguy cơ.

Phẫu thuật có thể gây ra biến chứng huyết khối tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch nhất là những phẫu thuật vùng tiểu khung như phẫu thuật trong sản khoa và niệu khoa các thủ thuật khác như bó bột, bất động lâu trong gãy xương…

Những bệnh ăn theo chế độ ăn kiêng nhiều chất bột, ít chất xơ hay bị táo bón cũng rất dễ bị giãn tĩnh mạch.

Theo một thống kê nghiên cứu đa trung tâm do Đại Học Y Dược TP HCM chủ xướng, đa số bệnh nhân, chiếm khoảng 77,6%, không hề biết về bệnh tĩnh mạch trước đó.

Điều này nói lên thực trạng về bệnh lý tĩnh mạch ở nước ta, trong đó chủ yếu là bệnh nhân ít quan tâm, ngại đi khám, thầy thuốc coi nhẹ và bỏ sót các triệu chứng.

Trong đó 91,3% bệnh nhân không được điều trị và 8,7% được điều trị không đúng phương pháp chủ yếu là sử dụng các loại thuốc chữa triệu chứng như Aspirin, lợi tiểu hoặc các loại thuốc Đông y.

Bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch có thể nhìn thấy những đoạn tĩnh mạch bị giãn, ngoằn ngoèo, da đổi màu, rối loạn dinh dưỡng, loét và sự xuất hiện của các u máu.

Về sau, các triệu chứng nặng dần, người bệnh có thể có những đợt viêm tắc tĩnh mạch với các triệu chứng nhiễm trùng toàn thân như sốt cao, môi khô lưỡi dơ và tại chỗ tĩnh mạch bị viêm đỏ, bên trong lòng xuất hiện những cục thuyên tắc cứng...

4 phương pháp điều trị suy tĩnh mạch mạn tính

Phòng ngừa

Phương pháp này nhằm chặn đứng sự  trào ngược và làm cho các lực tác động lên dòng chảy của tĩnh mạch được tốt hơn.

Để chân cao khi nằm nghỉ, tập cơ mạnh hơn, tránh đứng hay ngồi lâu, mang vớ thun hay quấn chân bằng băng thun, sửa lại vị trí bàn chân đối với các dị tật, tránh béo phì, tập hít thở sâu, ăn nhiều chất xơ để tránh táo bón…

Băng ép nhằm phục hồi áp suất chênh lệch giữa hai hệ thống tĩnh mạch nông và sâu thông qua hệ thống xuyên, giảm đường kính của lòng tĩnh mạch để tăng khả năng vận chuyển khi nghỉ ngơi cũng như khi gắng sức.

Điều trị nội khoa

Phần lớn các thuốc làm bền thành mạch chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Một số thầy thuốc chuyên khoa còn áp dụng phương pháp tiêm gây xơ tại chỗ với các thuốc làm xơ hóa lòng mạch máu.

Phẫu thuật

Gồm lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn gọi là phương pháp Stripping bằng một dụng cụ chuyên dùng cho phép rút các tĩnh mạch và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để, tỷ lệ tái phát thấp nhất.

Làm lạnh bằng nitơ lỏng

Làm lạnh với nitơ lỏng âm 90 độ C để làm nghẹt lòng tĩnh mạch qua một ống thông trong lòng tĩnh mạch, tuy nhiên phương pháp này cho tỷ lệ tái phát khá cao đến 30% các trường hợp.

Việc điều trị bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới đòi hỏi sự kết hợp giữa dùng thuốc, phẫu thuật và tập vật lý trị liệu tại các trung tâm chuyên sâu về bệnh này như Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM, Bệnh viện Minh Anh, các khoa phẫu thuật mạch máu tại một số bệnh viện lớn khác…

Phòng bệnh giãn tĩnh mạch bằng các phương pháp rất đơn giản như tránh béo phì, tránh đứng lâu, tránh táo bón và làm tăng sức bền của thành mạch máu bằng tập thể dục, ăn các thức ăn giàu vitamin nhiều chất xơ…

>>> Mời độc giả xem thêm video Phẫu thuật lấy búi tóc nặng gần 1kg trong dạ dày bệnh nhi 11 tuổi:

(Nguồn: THĐT)

PGS.TS.BS Nguyễn Hoài Nam, Chủ tịch Hội Tĩnh mạch học TP HCM

>> xem thêm

Bình luận(0)