Sau hai ngày xét xử phúc thẩm và nghị án, ngày 13/1, TAND Cấp cao tại TP.HCM đã tuyên án vụ tranh chấp hợp đồng hứa thưởng và các tranh chấp khác giữa nguyên đơn là luật gia Đặng Đình Thịnh với bị đơn là mẹ con bà Vương Thị Khanh (Việt kiều Mỹ) và ông Nguyễn Đắc Quang.
Ủy quyền đòi lại nhà, hứa thưởng 35%
Theo hồ sơ, căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai (quận 3, TP.HCM) thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà Vương Thị Khanh. Năm 1980, họ lập tờ ủy quyền cho người khác để xuất cảnh. Đến năm 1999, UBND TP xác lập sở hữu nhà nước đối với căn nhà này theo diện nhà vắng chủ.
|
Luật gia Đặng Đình Thịnh tại phiên tòa phúc thẩm. Ảnh: HỮU ĐĂNG |
Đến năm 2007, bà Khanh và con trai ủy quyền cho ông Thịnh thay mặt gia đình liên hệ với nhiều bộ, ngành đòi lại căn nhà này và ký thỏa thuận hứa thưởng cho ông Thịnh với mức thưởng là 35% trên tổng giá trị nhà, đất.
Ông Thịnh cho rằng sau khi được Nhà nước trả nhà, gia đình bà Khanh đã bội ước, trốn tránh nghĩa vụ trả thưởng và bán căn nhà này cho nhiều người. Vì vậy, ông khởi kiện bà Khanh và ông Quang ra tòa.
Xử sơ thẩm lần hai hồi tháng 5/2022, TAND TP.HCM tuyên buộc bà Khanh, ông Quang phải trả cho ông Thịnh hơn 68 tỉ đồng. HĐXX sơ thẩm cho rằng mẹ con bà Khanh, ông Quang chỉ được hưởng 12/20 phần giá trị toàn bộ nhà, đất trên (phần còn lại là của những hàng thừa kế khác). Do đó, ông Thịnh được nhận 35% trên phần được hưởng của bà Khanh, ông Quang.
Ông Thịnh kháng cáo yêu cầu xem xét lại tính pháp của hợp đồng mua bán căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai (quận 3, TP.HCM) giữa bà Khanh, ông Quang với bà Đặng Thu Hà là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Ngoài ra, ông Thịnh còn yêu cầu cấp phúc thẩm xác định lại số tiền hứa thưởng mà mình được nhận vì cho rằng số tiền được nhận phải lớn hơn con số 68 tỉ đồng mà tòa sơ thẩm tuyên.
Tuy nhiên, tại phiên phúc thẩm, ông Thịnh xin rút lại một phần yêu cầu kháng cáo, chỉ giữ lại yêu cầu phía bị đơn có trách nhiệm trả cho mình số tiền 35% trên tổng giá trị nhà, đất. Những người tham gia tố tụng khác vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình.
Văn bản hứa thưởng có giá trị pháp lý
Căn cứ vào tài liệu, hồ sơ có trong vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định văn bản thỏa thuận hứa thưởng giữa ông Thịnh và bà Khanh, ông Quang đã thực hiện công chứng. Tại thời điểm công chứng, công chứng viên xác nhận hai bên là hoàn toàn minh mẫn và tự nguyện. Đồng thời, văn bản này đã được hợp pháp hóa lãnh sự, đây là thỏa thuận không trái đạo đức xã hội, hai bên hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc nên phù hợp theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật cũng không giới hạn mức hứa thưởng (việc hứa thưởng do hai bên tự thỏa thuận). Mặt khác, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng thể hiện ông Thịnh là người duy nhất được ông Quang ủy quyền để đi đòi lại nhà và ông Thịnh đã hoàn thành việc đòi lại nhà cho ông Quang nên ghi nhận công sức của ông Thịnh và văn bản hứa thưởng có giá trị pháp lý.
Về mức tiền hứa thưởng, chứng thư định giá ngày 4-9-2020 xác định giá trị nhà, đất 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai là hơn 328 tỉ đồng. Căn nhà nêu trên là tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng bà Khanh (chồng bà Khanh mất năm 2004, không để lại di chúc) nên tại thời điểm hứa thưởng với ông Thịnh, bà Khanh, ông Quang chỉ được quyền định đoạt 12/20 phần giá trị của căn nhà là hơn 194 tỉ đồng.
Yêu cầu của ông Thịnh được hưởng 35% trên tổng giá trị căn nhà (hơn 113 tỉ đồng) theo như văn bản thỏa thuận hứa thưởng là không vượt quá phần giá trị mà bà Khanh, ông Quang có quyền định đoạt nên có cơ sở để chấp nhận một phần kháng cáo của ông Thịnh.
Từ đó, HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của ông Thịnh, tuyên sửa bản án sơ thẩm, buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Khanh, ông Quang phải có trách nhiệm trả cho ông Thịnh hơn 113 tỉ đồng.
Ngoài ra, HĐXX tuyên không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng ACB về khoản tiền đã bỏ ra để sửa lại căn nhà khi thuê.
Đối với bà Đặng Thu Hà (người mua lại căn nhà), HĐXX tuyên công nhận hợp đồng chuyển nhượng bất động sản giữa bà này với bà Khanh, ông Quang. Đồng thời, tòa buộc bà Hà phải thanh toán số tiền mua nhà còn lại và tiền hỗ trợ tổng cộng là 100 tỉ đồng. Buộc Ngân hàng ACB và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Khanh, ông Quang phải giao lại nhà trên cho bà Hà.
Đối với ông Vũ Huy Hoàng (người đặt cọc tiền mua nhà), HĐXX tuyên hợp đồng đặt cọc cam kết mua nhà giữa ông Hoàng và ông Quang vô hiệu do vi phạm điều cấm. Tòa buộc những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Khanh, ông Quang phải trả lại cho ông Hoàng 21 tỉ đồng.
TAND Tối cao từng hủy án
Vụ án này đã kéo dài nhiều năm và trải qua nhiều cấp xét xử. Cụ thể, tháng 2/2015, TAND TP.HCM xử sơ thẩm lần một nhận định hợp đồng hứa thưởng hoàn toàn hợp pháp, luật không cấm cũng như không có việc giới hạn mức trả thưởng. Cạnh đó, bị đơn không cung cấp được chứng cứ cho lời trình bày của mình về việc hủy hợp đồng, hủy ủy quyền... Do đó, tòa chấp nhận yêu cầu của ông Thịnh. Theo định giá, căn nhà có giá trị 156 tỉ đồng nên tòa buộc bị đơn phải trả cho ông Thịnh gần 55 tỉ đồng.
Ông Thịnh kháng cáo cho rằng việc định giá căn nhà trên thấp hơn giá thị trường rất nhiều. Về tố tụng, việc tòa gộp nhiều quan hệ tranh chấp liên quan vào giải quyết chung đã gây bất lợi cho ông.
Đến tháng 5/2016, TAND Cấp cao tại TP.HCM xử phúc thẩm công nhận thỏa thuận hứa thưởng trên, đồng thời hủy các tranh chấp khác, giao hồ sơ để xét xử sơ thẩm lại.
Tuy nhiên, ngày 7/9/2017, TAND Tối cao có quyết định giám đốc thẩm, hủy cả hai bản án sơ và phúc thẩm.
Ngày 31/5/2022, TAND TP.HCM xét xử sơ thẩm lần hai đã tuyên buộc bà Khanh, ông Quang phải trả cho ông Thịnh hơn 68 tỉ đồng.
Ông Thịnh kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên buộc bà Khanh, ông Quang phải có trách nhiệm trả cho mình số tiền 35% trên giá trị nhà, đất theo đúng thỏa thuận trước đó và tòa phúc thẩm tuyên án như trên.