Mời độc giả xem clip:
Xe tăng hạng nhẹ Panzer II (hay còn gọi là Panzerkampfwagen II, viết tắt là PzKpfw II) do các công ty quốc phòng Đức sản xuất từ năm 1935-1943, phục vụ cho các chiến dịch xâm lược của quân đội phát xít Đức.
Panzer II được thiết kế trước cuộc nội chiến Tây Ban Nha vì vậy các kĩ sư thiết kế “quên” gia cố lớp giáp bọc phần đỉnh tháp pháo, phần giáp sườn và mặt trước-một trong những yếu tố quyết định sự sống còn của xe tăng trong các trận đấu tăng thời hiện đại. Panzer II chỉ được thiết kế giáp đủ dày để phòng hỏa lực của bộ binh và các đạn pháo cỡ nhỏ.
|
Xe tăng Panzer II hành quân trong CTTG 2. |
Xe tăng Panzer II phiên bản A, B và C đều được bọc bằng một lớp giáp sắt đồng nhất với độ dày khoảng 14 mm ở các mặt trước-sườn-sau, dày 10 mm ở phần đỉnh và tháp pháo. Từ phiên bản Ausf. D, lớp giáp này được tăng lên 30 mm. Phiên bản F có lớp giáp trước dày 35 mm và lớp giáp sườn dày 20 mm. Nhìn chung, lớp giáp này không là đối thủ của pháo 76mm trên T-34 hay KV-1 của Liên Xô. Thậm chí các cỗ pháo 45mm trên xe tăng hạng nhẹ BT của Liên Xô cũng đủ sức hạ gục nó.
Bù lại, Panzer II chạy khá nhanh với tốc độ lên đến 55km/h dùng động cơ 140 mã lực HL 62 TRM cùng hệ thống treo Christie và truyền động cải tiến. Chính vì vậy, sau này khi được rút khỏi tuyến đầu, Panzer II đã thực hiện xuất sắc vai trò tăng trinh sát.
Về mặt hỏa lực, hầu hết các phiên bản xe tăng hạng nhẹ Panzer II đều dùng pháo chính 20mm KwK 30 55 đạt tốc độ bắn 280 phát/phút.