Hội thảo Nâng cao hiệu quả thực hiện Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập được tổ chức bởi Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) và Hội Thủy lợi Việt Nam tổ chức với sự tham dự của gần 50 chuyên gia là các nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực tài nguyên môi trường, phòng chống thiên tai..
|
Hội thảo Nâng cao hiệu quả thực hiện Kết luận số 36 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập.
|
Ngày 23/6/2022 Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 36-KL/TW về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Theo đó, bên cạnh những thành quả đạt được, Bộ Chính trị đánh giá công tác bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế như: Công tác quản trị nguồn nước của Việt Nam còn yếu, chưa hiệu quả, ý thức, trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương và người dân trong việc quản lý, khai thác, sử dụng nước chưa cao, ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng.
Đặc biệt, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước còn thiếu, chưa đồng bộ. Nhiều công trình thủy lợi đã và đang xuống cấp, rủi ro, mất an toàn đập, hồ chứa nước có xu hướng gia tăng. Việc phát triển công nghiệp, đô thị trong thời gian qua chưa gắn với bảo đảm an ninh nguồn nước, làm suy giảm số lượng, chất lượng nguồn nước, thậm chí gây mất an ninh nguồn nước. Hợp tác quốc tế về bảo đảm an ninh nguồn nước hiệu quả chưa cao…
Phát biểu khai mạc hội thảo, TSKH Phan Xuân Dũng - Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam cho biết, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú, dồi dào. Tổng lượng nước mặt trung bình khoảng 840 tỷ m3/năm. Với hơn 7.500 đập, hồ chứa đã tạo nên dung tích trữ nước chủ động trên 70 tỷ m3.
Tuy nhiên, nguồn nước của Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng sụt giảm về trữ lượng do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; thay đổi chế độ dòng chảy; sự phụ thuộc nhiều vào nguồn nước sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ; thoái hóa rừng làm giảm khả năng giữ nước, điều hòa nguồn nước. Bên cạnh đó, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa; sự gia tăng của dân số và nhu cầu sử dụng nước phục vụ dân sinh và sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng nhanh, tình trạng ô nhiễm nguồn nước chưa được giải quyết triệt để đã làm suy giảm chất lượng nước.
|
TSKH Phan Xuân Dũng - Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam. |
TSKH Phan Xuân Dũng đánh giá, thời gian qua, Nhà nước đã bố trí gần 10.000 tỷ đồng để sửa chữa, nâng cấp đảm bảo an toàn cho hơn 800 hồ chứa. Tuy nhiên, vẫn còn đến 1.200 hồ chứa bị hư hỏng xuống cấp, chưa được sửa chữa, nâng cấp, trong đó có 200 hồ chứa hư hỏng nghiêm trọng cần xử lý cấp bách. Trong thời gian tới, nếu không có giải pháp đột phá, Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ mất an ninh nguồn nước và mất an toàn đập, hồ chứa nước, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống Nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội.
GS.TS Đào Xuân Học - Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam cho rằng, lý thuyết khoa học và thực tiễn đã cho thấy không thể tách rời quản lý tài nguyên nước với quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước và phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay. Nếu thống nhất về một đầu mối sẽ không tạo ra sự chồng chéo và khoảng trống, Nhà nước có thể giảm số cán bộ làm công tác quy hoạch (khoảng 300-400 người) ở Trung tâm Quy hoạch và điều tra nước ở Bộ Tài nguyên và Môi trường; giảm kinh phí đầu tư cho hai quy hoạch song song là Quy hoạch tài nguyên nước và quy hoạch Thủy lợi.
|
Các vị đại biểu tham gia Hội thảo. |
Hội Thủy lợi Việt Nam đề xuất Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định đưa công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước và phòng tránh giảm nhẹ thiên tai về một đầu mối. Đầu mối này đặt ở bộ đa ngành nào sẽ do Chính phủ quyết định.
Tại Kết luận số 36-KL/TW Bộ Chính trị đã yêu cầu thực hiện các mục tiêu cụ thể giai đoạn đến năm 2025, 2030, 2045, gồm: Đến năm 2025: Hoàn thành việc lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến nước; 95% hộ gia đình ở thành thị và 60% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nước cho sản xuất, đặc biệt là các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, miền núi phía Bắc; cơ bản sửa chữa, nâng cấp bảo đảm an toàn các đập, hồ chứa nước bị hư hỏng, xuống cấp, chưa đủ khả năng chống lũ theo thiết kế.
Đến năm 2030: Cân đối đủ nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội; 100% hộ gia đình ở thành thị và 80% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn. Giải quyết căn bản nước sinh hoạt cho các đảo có đông dân cư; hoàn thiện đồng bộ hệ thống công trình điều tiết nước mặn, nước ngọt, tích trữ nước trên các lưu vực sông lớn; hoàn thành sửa chữa, nâng cấp các đập, hồ chứa nước hư hỏng, xuống cấp, thiếu năng lực phòng, chống lũ; bước đầu khắc phục tình trạng suy thoái, ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng tại một số lưu vực sông, hệ thống công trình thuỷ lợi lớn; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng và vận hành hệ thống theo dõi, đánh giá, giám sát an ninh nguồn nước quốc gia theo phương thức quản trị nguồn nước của quốc tế.
Đến năm 2045: Chủ động được nguồn nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; dự báo, cảnh báo dài hạn để xử lý ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu; kiểm soát và khắc phục tình trạng suy thoái, ô nhiễm nguồn nước tại các lưu vực sông, hệ thống công trình thuỷ lợi; hoàn thiện chính sách về nước đồng bộ, thống nhất liên ngành, liên vùng, bảo đảm an ninh nguồn nước.
>>> Xem thêm video: Chủ tịch VUSTA Phan Xuân Dũng phát biểu tiếp thu Chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính và bế mạc Hội nghị