Chuyện độc nhất vô nhị: Hai vợ chồng đều ở ngôi vua

Google News

Đó chính là chuyện của Lý Chiêu Hoàng và Thái Tông Trần Cảnh. 

Lý Chiêu Hoàng còn là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử các vương triều phong kiến Việt Nam. Bà tên thật là là Lý Phật Kim (sau đổi tên là Lý Thiên Hinh), được sắc phong làm Chiêu Thánh công chúa, bà là con gái thứ hai của Vua Lý Huệ Tông và Hoàng hậu Trần Thị Dung.
Theo chính sử bà chào đời tháng Chín năm Mậu Dần (1218) còn nội dung bản văn chầu sự tích về công chúa cho biết rõ hơn về ngày sinh, đó là ngày 16 qua đoạn ghi: Lại còn thu cửu trăng cao/ Ngọc Hoàng sai chúa hiện vào Lý gia”, như vậy “thu cửu, tức là mùa Thu, tháng Chín; còn “trăng cao” là vào ngày 16 giữa tháng khi trăng tròn mọc cao và sáng nhất.
Do Lý Huệ Tông không có con trai, nên năm 1224, Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái nữ, rồi Vua Lý Huệ Tông truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo, với tôn hiệu là Chiêu Hoàng đế, lúc nữ hoàng mới lên 7 tuổi.
 Tượng Lý Chiêu Hoàng ở Bắc Ninh.
Nữ hoàng ở ngôi khi tuổi còn quá nhỏ nên việc triều chính do Thái hậu Trần Thị Dung điều hành. Từ đấy những người thân thuộc của họ Trần được đưa vào nắm giữ binh quyền và các chức vụ quan trọng trong triều ngày càng nhiều.
Lúc đó, Trần Thủ Độ tính kế đoạt vương quyền về tay dòng họ mình. Ông cho một người cháu họ là Trần Cảnh, 8 tuổi được đưa vào cung làm Chánh thủ, có nhiệm vụ hầu hạ Lý Chiêu Hoàng.
Vì cùng lứa tuổi nên Chiêu Hoàng chỉ thích gần gũi trò chuyện, trêu đùa với Trần Cảnh rất vui vẻ, thân thiết. Cho đây là cơ hội ngàn năm khó gặp, Trần Thủ Độ, bàn với thái hậu Trần Thị Dung thực hiện cuộc “đảo chính cung đình” với việc làm táo bạo bằng cách đem hết gia thuộc thân thích vào trong cung cấm.
Trần Cảnh.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau:
... Một hôm, Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng.
Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ.
Thủ Độ nói: Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?
Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh.
Chiêu Hoàng cười và nói: Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó. Cảnh lại về nói với Thủ Độ.
Thủ độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng:
Bệ hạ đã có chồng rồi!
Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Các quan vào chầu lạy mừng. Vua xuống chiếu rằng:
Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề?
Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết.
Sự kiện ấy diễn ra vào tháng Mười năm Ất Dậu (1225), Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế...
Sau đó vua xuất gia đi tu tại chùa Chân Giáo trong đại nội thành Thăng Long với pháp danh là Huệ Quang đại sư. Vậy là khúc quanh của lịch sử đã đưa đẩy Lý Phật Kim, một cô bé 8 tuổi bước lên ngai vàng trong giai đoạn vương triều Lý đã suy vong cùng cực.
Triều chính chuyển giao sang tay họ Trần. Trần Cảnh lên điện rồng, đầu đội mũ bình thiên, mình khoác áo long cổn làm lễ đăng quang, xưng là Thiên Hoàng, đặt niên hiệu là Kiến Trung, trở thành vị vua đầu tiên của nhà Trần.
Việc này đã đưa đến chuyện Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim) và Trần Thái Tông (Trần Cảnh) trở thành đôi vợ chồng duy nhất trong lịch sử dân tộc đều làm vua.
Theo Hai Miệt Vườn/Dân Việt

Bình luận(0)