Chiến tranh thế giới thứ hai đã mở ra một kỷ nguyên mới của vũ khí cầm tay, khi ra đời súng trường tấn công. Những khẩu súng tự động này mạnh hơn so với súng tiểu liên, nhưng nhẹ hơn và tiện lợi hơn so với súng trường dài tiêu chuẩn.Vào cuối Thế chiến II, Quân đội Liên Xô đã mở cuộc thi chọn súng trường tấn công mới cho quân đội. Họ muốn một vũ khí đáp ứng các tiêu chí cụ thể; trước hết phải là một vũ khí đáng tin cậy, có thể chịu được bùn lầy, bụi bẩn và vẫn có thể bắn 600 phát mỗi phút; thứ hai cấu tạo đơn giản và dễ sử dụng; thứ ba phải rẻ và dễ sản xuất hàng loạt.Tất cả những tiêu chí đó đã được cụ thể hóa vào khẩu súng trường tấn công AK-47, do kỹ sư trẻ Kalashnikov thiết kế. AK-47 sử dụng loại đạn trung gian mới nhất khi đó (7,62×39mm), có khả năng bắn trúng mục tiêu cách xa 200 mét. Quan trọng nhất, AK-47 đã kết hợp được sức mạnh của súng trường với tốc độ bắn của súng tiểu liên thời đó. Tuy nhiên, những phiên bản AK-47 đầu tiên vẫn còn rất thô và cần rất nhiều việc phải hoàn thiện. Chúng đáp ứng các tiêu chí về độ tin cậy, hoạt động và sản xuất, nhưng thiếu các đặc điểm về độ chính xác và cũng quá nặng; đặc biệt không thoải mái khi sử dụng lúc đầu.Thiết kế khẩu AK đã vượt được qua những bài kiểm tra cuối cùng và được Quân đội Liên Xô thông qua vào năm 1949 và ngay lập tức được gửi đến các đơn vị quân đội để lấy ý kiến sửa đổi.Phiên bản sửa đổi đầu tiên của AK-47 là phiên bản AKM, được thông qua vào cuối những năm 1950 và là nền tảng của tất cả các phiên bản Kalashnikov về sau này, đó là dễ sản xuất, tin cậy và độ bền cao.Hai cải tiến lớn của AKM so với AK-47 là trọng lượng nhẹ hơn và dễ chế tạo. AKM có khóa nòng xoay dễ sản xuất hơn và rẻ hơn, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ nhanh hơn và hiệu quả hơn cho các nước trong Khối quân sự Hiệp ước Warsaw như Romania, Hungary, Ba Lan, Đông Đức và các nước khác.Về cơ bản, các phiên bản AK-47 cũng không có giảm giật đầu nòng, do vậy súng có độ giật nảy rất mạnh và không có khả năng bắn chính xác. Vì vậy, các kỹ sư đã phát triển một “mấu vát”, giúp ổn định cho khẩu AK, để “làm mềm tính”; giúp khi bắn ổn định hơn và cho phép lắp đặt bộ phận giảm thanh trên vũ khí.AKM cũng trở có trọng lượng nhẹ hơn và có khả năng bắn trúng mục tiêu cách xa 250 mét. AKM cũng có thể được trang bị ống ngắm ban đêm và súng phóng lựu 40 mm dưới nòng và một lưỡi lê. AKM trở thành súng trường tấn công đáng tin cậy nhất trên thế giới. Hiện quân đội nhiều quốc gia vẫn sử dụng AKM là vũ khí bộ binh chính. Vào đầu những năm 1960, các kỹ sư Kalashnikov đã tìm cách tiếp tục nâng cấp AKM. Họ đã thử nghiệm các loại vật liệu polyme cùng loại đạn mới xuất hiện (5,56×39mm) và nghiên cứu xem các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, đang phát triển những gì cho vũ khí bộ binh của họ.Vào thời điểm đó, Chiến tranh Việt Nam đã nổ ra và Quân đội Mỹ đang bắt đầu trang bị loại súng trường tấn công M-16. M-16 nhẹ, sử dụng đạn thế hệ mới, nên đã mở ra cơ hội mới cho những người lính trên chiến trường. Vì vậy, các kỹ sư Liên Xô đã quyết định tạo ra vũ khí của riêng họ, dựa trên loại đạn mới, xung lực thấp. Ngay lập tức, Liên Xô đưa vào trang bị phiên bản AK-74, hội tụ tất cả những công nghệ tốt nhất trong thời đại của nó. AK-74 sử dụng đạn 5,45×39 mm, vượt quá các đặc tính đạn của AKM trước đó về một số mặt, khi có sơ tốc lớn hơn và do đó, tầm bắn hiệu quả xa hơn, mang được nhiều đạn hơn, độ giật ít hơn, mức chính xác cao hơn.AK-74 cũng sử dụng báng súng và băng đạn làm từ vật liệu polyme; chúng bền bằng kim loại và gỗ, được sử dụng trong các khẩu AK trước đây, nhưng cũng làm giảm đáng kể trọng lượng của AK-74. Cho phép cơ số đạn tăng lên 25% (4 băng của AK-74, so với 3 băng của AKM).Tuy nhiên, bất chấp tất cả những ưu điểm của AK-74, quân đội các quốc gia khác không nhanh chóng chuyển từ AKM sang AK-74. Lý do rất đơn giản – cần quá nhiều kinh phí để thay thế những khẩu AKM đang có và số đạn trong kho; đồng thời số tiền mua toàn bộ AK-74 là quá lớn.Đây cũng là một trong những lý do quân đội Nga và Mỹ ngày nay không háo hức thay thế ồ ạt súng trường tấn công thời đại mới và đạn cho quân đội của họ trong tương lai gần.Phiên bản mới nhất của gia đình AK là khẩu AK-12 được phát triển vào thập niên 2010. AK-12 vẫn sử dụng đạn 5,45×39mm; báng súng bằng polyme được thiết kế lại; tay cầm, vòng cò, kính ngắm giống như trong biến thể AK-19 (phiên bản sử dụng đạn 5,56×45mm của NATO).AK-12 được trang bị kính ngắm ban đêm và quang học hiện đại, có bệ đỡ có thể điều chỉnh được, bộ hãm thanh có thể tháo rời nhanh và khóa an toàn dễ đóng mở hơn. AK-12 cũng có mức chính xác cao hơn các phiên bản AK trước đó.AK-12 có thể được điều chỉnh báng súng để phù hợp với bất kỳ người bắn nào; súng cũng được trang bị ray Picatinny cả trên và dưới để lắp đặt kính ngắm, đèn pin theo tiêu chuẩn vũ khí hiện đại. AK-12 được trang bị loa giảm giật mới, ngoài giảm giật nảy, còn giảm bớt chớp lửa đầu nòng, giữ bí mật cho người bắn. Theo các chuyên gia của Kalashnikov Concern tiết lộ, thế hệ mới của gia đình súng AK chủ yếu tập trung vào các nhiệm vụ đặc biệt và hoạt động bí mật, im lặng; thay vì được sử dụng vào các cuộc giao tranh trực tiếp ở thành phố hoặc ở các vùng nông thôn như các phiên bản AK hiện nay.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã mở ra một kỷ nguyên mới của vũ khí cầm tay, khi ra đời súng trường tấn công. Những khẩu súng tự động này mạnh hơn so với súng tiểu liên, nhưng nhẹ hơn và tiện lợi hơn so với súng trường dài tiêu chuẩn.
Vào cuối Thế chiến II, Quân đội Liên Xô đã mở cuộc thi chọn súng trường tấn công mới cho quân đội. Họ muốn một vũ khí đáp ứng các tiêu chí cụ thể; trước hết phải là một vũ khí đáng tin cậy, có thể chịu được bùn lầy, bụi bẩn và vẫn có thể bắn 600 phát mỗi phút; thứ hai cấu tạo đơn giản và dễ sử dụng; thứ ba phải rẻ và dễ sản xuất hàng loạt.
Tất cả những tiêu chí đó đã được cụ thể hóa vào khẩu súng trường tấn công AK-47, do kỹ sư trẻ Kalashnikov thiết kế. AK-47 sử dụng loại đạn trung gian mới nhất khi đó (7,62×39mm), có khả năng bắn trúng mục tiêu cách xa 200 mét. Quan trọng nhất, AK-47 đã kết hợp được sức mạnh của súng trường với tốc độ bắn của súng tiểu liên thời đó.
Tuy nhiên, những phiên bản AK-47 đầu tiên vẫn còn rất thô và cần rất nhiều việc phải hoàn thiện. Chúng đáp ứng các tiêu chí về độ tin cậy, hoạt động và sản xuất, nhưng thiếu các đặc điểm về độ chính xác và cũng quá nặng; đặc biệt không thoải mái khi sử dụng lúc đầu.
Thiết kế khẩu AK đã vượt được qua những bài kiểm tra cuối cùng và được Quân đội Liên Xô thông qua vào năm 1949 và ngay lập tức được gửi đến các đơn vị quân đội để lấy ý kiến sửa đổi.
Phiên bản sửa đổi đầu tiên của AK-47 là phiên bản AKM, được thông qua vào cuối những năm 1950 và là nền tảng của tất cả các phiên bản Kalashnikov về sau này, đó là dễ sản xuất, tin cậy và độ bền cao.
Hai cải tiến lớn của AKM so với AK-47 là trọng lượng nhẹ hơn và dễ chế tạo. AKM có khóa nòng xoay dễ sản xuất hơn và rẻ hơn, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ nhanh hơn và hiệu quả hơn cho các nước trong Khối quân sự Hiệp ước Warsaw như Romania, Hungary, Ba Lan, Đông Đức và các nước khác.
Về cơ bản, các phiên bản AK-47 cũng không có giảm giật đầu nòng, do vậy súng có độ giật nảy rất mạnh và không có khả năng bắn chính xác. Vì vậy, các kỹ sư đã phát triển một “mấu vát”, giúp ổn định cho khẩu AK, để “làm mềm tính”; giúp khi bắn ổn định hơn và cho phép lắp đặt bộ phận giảm thanh trên vũ khí.
AKM cũng trở có trọng lượng nhẹ hơn và có khả năng bắn trúng mục tiêu cách xa 250 mét. AKM cũng có thể được trang bị ống ngắm ban đêm và súng phóng lựu 40 mm dưới nòng và một lưỡi lê. AKM trở thành súng trường tấn công đáng tin cậy nhất trên thế giới. Hiện quân đội nhiều quốc gia vẫn sử dụng AKM là vũ khí bộ binh chính.
Vào đầu những năm 1960, các kỹ sư Kalashnikov đã tìm cách tiếp tục nâng cấp AKM. Họ đã thử nghiệm các loại vật liệu polyme cùng loại đạn mới xuất hiện (5,56×39mm) và nghiên cứu xem các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, đang phát triển những gì cho vũ khí bộ binh của họ.
Vào thời điểm đó, Chiến tranh Việt Nam đã nổ ra và Quân đội Mỹ đang bắt đầu trang bị loại súng trường tấn công M-16. M-16 nhẹ, sử dụng đạn thế hệ mới, nên đã mở ra cơ hội mới cho những người lính trên chiến trường. Vì vậy, các kỹ sư Liên Xô đã quyết định tạo ra vũ khí của riêng họ, dựa trên loại đạn mới, xung lực thấp.
Ngay lập tức, Liên Xô đưa vào trang bị phiên bản AK-74, hội tụ tất cả những công nghệ tốt nhất trong thời đại của nó. AK-74 sử dụng đạn 5,45×39 mm, vượt quá các đặc tính đạn của AKM trước đó về một số mặt, khi có sơ tốc lớn hơn và do đó, tầm bắn hiệu quả xa hơn, mang được nhiều đạn hơn, độ giật ít hơn, mức chính xác cao hơn.
AK-74 cũng sử dụng báng súng và băng đạn làm từ vật liệu polyme; chúng bền bằng kim loại và gỗ, được sử dụng trong các khẩu AK trước đây, nhưng cũng làm giảm đáng kể trọng lượng của AK-74. Cho phép cơ số đạn tăng lên 25% (4 băng của AK-74, so với 3 băng của AKM).
Tuy nhiên, bất chấp tất cả những ưu điểm của AK-74, quân đội các quốc gia khác không nhanh chóng chuyển từ AKM sang AK-74. Lý do rất đơn giản – cần quá nhiều kinh phí để thay thế những khẩu AKM đang có và số đạn trong kho; đồng thời số tiền mua toàn bộ AK-74 là quá lớn.
Đây cũng là một trong những lý do quân đội Nga và Mỹ ngày nay không háo hức thay thế ồ ạt súng trường tấn công thời đại mới và đạn cho quân đội của họ trong tương lai gần.
Phiên bản mới nhất của gia đình AK là khẩu AK-12 được phát triển vào thập niên 2010. AK-12 vẫn sử dụng đạn 5,45×39mm; báng súng bằng polyme được thiết kế lại; tay cầm, vòng cò, kính ngắm giống như trong biến thể AK-19 (phiên bản sử dụng đạn 5,56×45mm của NATO).
AK-12 được trang bị kính ngắm ban đêm và quang học hiện đại, có bệ đỡ có thể điều chỉnh được, bộ hãm thanh có thể tháo rời nhanh và khóa an toàn dễ đóng mở hơn. AK-12 cũng có mức chính xác cao hơn các phiên bản AK trước đó.
AK-12 có thể được điều chỉnh báng súng để phù hợp với bất kỳ người bắn nào; súng cũng được trang bị ray Picatinny cả trên và dưới để lắp đặt kính ngắm, đèn pin theo tiêu chuẩn vũ khí hiện đại. AK-12 được trang bị loa giảm giật mới, ngoài giảm giật nảy, còn giảm bớt chớp lửa đầu nòng, giữ bí mật cho người bắn.
Theo các chuyên gia của Kalashnikov Concern tiết lộ, thế hệ mới của gia đình súng AK chủ yếu tập trung vào các nhiệm vụ đặc biệt và hoạt động bí mật, im lặng; thay vì được sử dụng vào các cuộc giao tranh trực tiếp ở thành phố hoặc ở các vùng nông thôn như các phiên bản AK hiện nay.