Đầu tiên là súng trường M-14, đây là vũ khí chính của bộ binh Mỹ sử dụng trong giai đoạn đầu chiến tranh Việt Nam, có cỡ nòng 7,62 mm, với độ chính xác cao và hỏa lực mạnh, nhưng hạn chế của khẩu súng này lại nặng và khó sử dụng.M-14 có chiều dài 1.181 mm, nòng súng dài 559 mm và nặng khoảng 5,2 kg khi chưa có đạn. Vận tốc ban đầu của đạn là hơn 850 m/s, tốc độ bắn 725 viên mỗi phút và tầm bắn tối đa 460 m.Thứ hai trong danh sách là súng trường tấn công M-16. Súng có cỡ nòng 5,56 mm, là một trong những vũ khí bộ binh phổ biến nhất của lính Mỹ trên chiến trường Việt Nam, được đưa vào sử dụng từ năm 1964.M-16 hoạt động với hai chế độ bắn tự động và bán tự động, tầm bắn hiệu quả 300 m, tốc độ bắn 700 - 900 viên mỗi phút. Từ năm 1968, súng M-16 được sử dụng rộng rãi, đến nay súng M-16 vẫn đang được sử dụng trong quân đội Mỹ.Tiếp theo là súng Colt CAR-15, là loại súng trường tấn công, có khe gắn ống ngắm, được sản xuất trong giai đoạn Mỹ đẩy mạnh can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam, nhằm đáp ứng nhu cầu về một vũ khí cận chiến dễ mang theo cho lực lượng đặc nhiệm Mỹ tác chiến trong rừng ở miền Nam Việt Nam.CAR-15 được sản xuất vào năm 1966, dựa trên mẫu súng ArmaLite AR-15, là nguyên mẫu để chế tạo M-16. CAR-15 dài khoảng 80 cm, nòng súng dài hơn 25 cm và nặng hơn 2 kg. CAR-15 sử dụng đạn 5,56 x 45 mm NATO, băng đạn gồm loại chứa 20 và 30 viên đạn.Thứ tư là súng ngắn Colt-45 xuất hiện lần đầu vào năm 1911 và được sử dụng trong hai cuộc chiến tranh thế giới, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam. Loại súng ngắn này vẫn tiếp tục được sử dụng trong quân đội Mỹ hiện nay.Súng Colt-45 có chiều dài 210 mm, nòng súng dài 127 mm, trọng lượng khi không có đạn là 1,14 kg, băng đạn gồm 7 viên và tầm bắn hiệu quả là 25 m. Colt-45 thường được trang bị cho sĩ quan và các lực lượng đặc biệt.Thứ năm là súng máy hạng nhẹ M-60, sử dụng cỡ nòng 7,62 mm, súng thường được gắn trên phương tiện bọc thép hoặc trực thăng và sử dụng để hỗ trợ bộ binh.M-60 có tầm bắn hiệu quả 500 m đến 1.100 m, súng thường được lắp vào giá hai chân và ba chân. Súng máy M-60 có chiều dài 1105 mm, nòng dài 560 mm, trọng lượng rỗng 10,51 kg, tốc độ bắn 550 viên/phút, tầm bắn 1.000 m.Cuối cùng là LAW M-72, là loại vũ khí chống tăng hạng nhẹ do Mỹ thiết kế. Trong chiến tranh Việt Nam, binh sĩ Mỹ dùng LAW M-72 chủ yếu để phá lô cốt. Súng phóng lựu LAW M-72 có thể đưa vào trong trận địa dễ dàng do trọng lượng nhẹ, khoảng 2,5 kg, để bắn hỗ trợ tầm trung và phải thay ống phóng lựu mới sau mỗi lần bắn.Súng phóng lựu LAW M-72 có tổng chiều dài 1.000 mm, tầm bắn tối đa khoảng 500 m, sử dụng đạn cỡ 66 mm và bắn được một phát mỗi phút. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tịch thu được rất nhiều loại vũ khí này và tiếp tục sử dụng một thời gian dài sau đó. Nguồn ảnh: TL. Quân đội Mỹ tiếp tục sử dụng súng phóng lựu M-72 LAW trong cuộc chiến ở Afghanistan sau này. Nguồn: USAM.
Đầu tiên là súng trường M-14, đây là vũ khí chính của bộ binh Mỹ sử dụng trong giai đoạn đầu chiến tranh Việt Nam, có cỡ nòng 7,62 mm, với độ chính xác cao và hỏa lực mạnh, nhưng hạn chế của khẩu súng này lại nặng và khó sử dụng.
M-14 có chiều dài 1.181 mm, nòng súng dài 559 mm và nặng khoảng 5,2 kg khi chưa có đạn. Vận tốc ban đầu của đạn là hơn 850 m/s, tốc độ bắn 725 viên mỗi phút và tầm bắn tối đa 460 m.
Thứ hai trong danh sách là súng trường tấn công M-16. Súng có cỡ nòng 5,56 mm, là một trong những vũ khí bộ binh phổ biến nhất của lính Mỹ trên chiến trường Việt Nam, được đưa vào sử dụng từ năm 1964.
M-16 hoạt động với hai chế độ bắn tự động và bán tự động, tầm bắn hiệu quả 300 m, tốc độ bắn 700 - 900 viên mỗi phút. Từ năm 1968, súng M-16 được sử dụng rộng rãi, đến nay súng M-16 vẫn đang được sử dụng trong quân đội Mỹ.
Tiếp theo là súng Colt CAR-15, là loại súng trường tấn công, có khe gắn ống ngắm, được sản xuất trong giai đoạn Mỹ đẩy mạnh can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam, nhằm đáp ứng nhu cầu về một vũ khí cận chiến dễ mang theo cho lực lượng đặc nhiệm Mỹ tác chiến trong rừng ở miền Nam Việt Nam.
CAR-15 được sản xuất vào năm 1966, dựa trên mẫu súng ArmaLite AR-15, là nguyên mẫu để chế tạo M-16. CAR-15 dài khoảng 80 cm, nòng súng dài hơn 25 cm và nặng hơn 2 kg. CAR-15 sử dụng đạn 5,56 x 45 mm NATO, băng đạn gồm loại chứa 20 và 30 viên đạn.
Thứ tư là súng ngắn Colt-45 xuất hiện lần đầu vào năm 1911 và được sử dụng trong hai cuộc chiến tranh thế giới, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam. Loại súng ngắn này vẫn tiếp tục được sử dụng trong quân đội Mỹ hiện nay.
Súng Colt-45 có chiều dài 210 mm, nòng súng dài 127 mm, trọng lượng khi không có đạn là 1,14 kg, băng đạn gồm 7 viên và tầm bắn hiệu quả là 25 m. Colt-45 thường được trang bị cho sĩ quan và các lực lượng đặc biệt.
Thứ năm là súng máy hạng nhẹ M-60, sử dụng cỡ nòng 7,62 mm, súng thường được gắn trên phương tiện bọc thép hoặc trực thăng và sử dụng để hỗ trợ bộ binh.
M-60 có tầm bắn hiệu quả 500 m đến 1.100 m, súng thường được lắp vào giá hai chân và ba chân. Súng máy M-60 có chiều dài 1105 mm, nòng dài 560 mm, trọng lượng rỗng 10,51 kg, tốc độ bắn 550 viên/phút, tầm bắn 1.000 m.
Cuối cùng là LAW M-72, là loại vũ khí chống tăng hạng nhẹ do Mỹ thiết kế. Trong chiến tranh Việt Nam, binh sĩ Mỹ dùng LAW M-72 chủ yếu để phá lô cốt. Súng phóng lựu LAW M-72 có thể đưa vào trong trận địa dễ dàng do trọng lượng nhẹ, khoảng 2,5 kg, để bắn hỗ trợ tầm trung và phải thay ống phóng lựu mới sau mỗi lần bắn.
Súng phóng lựu LAW M-72 có tổng chiều dài 1.000 mm, tầm bắn tối đa khoảng 500 m, sử dụng đạn cỡ 66 mm và bắn được một phát mỗi phút. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tịch thu được rất nhiều loại vũ khí này và tiếp tục sử dụng một thời gian dài sau đó. Nguồn ảnh: TL.
Quân đội Mỹ tiếp tục sử dụng súng phóng lựu M-72 LAW trong cuộc chiến ở Afghanistan sau này. Nguồn: USAM.