Theo đó mẫu pháo kéo 152mm mang tên Type 66 được Trung Quốc sản xuất dựa trên mẫu pháo kéo D-20 lừng danh. Điều khá đặt biệt là chính Liên Xô đã giúp Trung Quốc chế tạo được D-20 với khi trực tiếp chuyển giao thiết kế và cấp quyền sản xuất D-20 cho Bắc Kinh khi quan hệ hai nước còn mặn nồng vào đầu những năm 1960. Nguồn ảnh: Sina.Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, đây đã là khẩu pháo chủ lực của pháo binh Trung Quốc và nó còn được Bắc Kinh xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới bao gồm cả Iraq và Sri Lanka. Nguồn ảnh: Sina.Giống với khẩu D-20 của Liên Xô, khẩu Type 66 hay còn được gọi là PL-66 của Trung Quốc cũng được đánh giá là ổn định, bền bỉ và có sức công phá kinh hoàng. Nguồn ảnh: Sina.Type 66 có thể được dễ dàng nhận ra bởi nòng pháo ngắn và hệ thống thoát khí phản lực đặc trưng được thiết kế ở đầu nòng. Khẩu pháo này cũng sử dụng lá chắn cho kíp chiến đấu tương tự như khẩu Type 59 122mm (phiên bản nội địa của D-74 Liên Xô). Nguồn ảnh: Sina.Được thiết kế kèm hệ thống nạp đạn bán tự động, pháo kéo PL-66 có khả năng bắn với tốc độ tối đa lên tới 6 viên mỗi phút. Khẩu pháo này có nòng dài gấp 26 lần đường kính, có khả năng bắn kiểu cầu vồng hoặc bắn thẳng trực tiếp, sử dụng được nhiều loại đạn khác nhau. Nguồn ảnh: Sina.Các loại đạn được Type 66 sử dụng bao gồm đạn nổ mảnh, đạn nổ mạnh, đạn xuyên phá hoặc đạn phát quang. Trung Quốc thậm chí còn tự chế tạo ra phiên bản đạn phản lực để gia tăng tầm bắn cho khẩu pháo này. Nguồn ảnh: Sina.Phiên bản gốc D-20 của Liên Xô thậm chí còn có cả đầu đạn nguyên tử, tuy nhiên không có bằng chứng cho thấy Trung Quốc sở hữu loại vũ khí này. Tầm bắn tối đa của Type 66 là 22 km khi sử dụng đạn phản lực hoặc 17 km khi sử dụng đạn thường. Nguồn ảnh: Sina.Khi mới được phục vụ trong lực lượng pháo binh Trung Quốc, PL-66 được coi là khẩu pháo hợp thời. Tuy nhiên tới những năm 70 khi phương Tây chuyển sang sử dụng pháo 105mm và 155mm, khẩu pháo này đã dần tỏ ra kém hiệu quả nhưng vẫn được Trung Quốc sử dụng tới tận ngày nay. Nguồn ảnh: Sina.Kíp chiến đấu của PL-66 có tổng cộng 10 thành viên, tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, PL-66 vẫn có thể vận hành tốt với chỉ 6 người tuy nhiên tốc độ bắn sẽ bị giảm xuống đáng kể. Nguồn ảnh: Sina.Thời gian cần thiết để chuyển khẩu pháo này từ trạng thái hành tiến sang trạng thái chiến đấu là 3 phút và thời gian chuyển pháo từ trạng thái chiến đấu sang trạng thái hành quân tốn từ 2 tới tối đa 3 phút. Nguồn ảnh: Sina.Pháo binh Trung Quốc với khẩu PL-66 thắp sáng trời đêm. Nguồn ảnh: Sina.Mặc dù đã lỗi thời, tuy nhiên khẩu pháo cỡ nòng 152mm này vẫn tiếp tục được phục vụ trong Quân đội Trung Quốc. Nguồn ảnh: Sina.Cận cảnh trận địa pháo PL-66 của Trung Quốc đồng loạt khai hỏa. Nguồn ảnh: Sina. Mời độc giả xem Video: Pháo lựu tự hành 155mm của Trung Quốc.
Theo đó mẫu pháo kéo 152mm mang tên Type 66 được Trung Quốc sản xuất dựa trên mẫu pháo kéo D-20 lừng danh. Điều khá đặt biệt là chính Liên Xô đã giúp Trung Quốc chế tạo được D-20 với khi trực tiếp chuyển giao thiết kế và cấp quyền sản xuất D-20 cho Bắc Kinh khi quan hệ hai nước còn mặn nồng vào đầu những năm 1960. Nguồn ảnh: Sina.
Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, đây đã là khẩu pháo chủ lực của pháo binh Trung Quốc và nó còn được Bắc Kinh xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới bao gồm cả Iraq và Sri Lanka. Nguồn ảnh: Sina.
Giống với khẩu D-20 của Liên Xô, khẩu Type 66 hay còn được gọi là PL-66 của Trung Quốc cũng được đánh giá là ổn định, bền bỉ và có sức công phá kinh hoàng. Nguồn ảnh: Sina.
Type 66 có thể được dễ dàng nhận ra bởi nòng pháo ngắn và hệ thống thoát khí phản lực đặc trưng được thiết kế ở đầu nòng. Khẩu pháo này cũng sử dụng lá chắn cho kíp chiến đấu tương tự như khẩu Type 59 122mm (phiên bản nội địa của D-74 Liên Xô). Nguồn ảnh: Sina.
Được thiết kế kèm hệ thống nạp đạn bán tự động, pháo kéo PL-66 có khả năng bắn với tốc độ tối đa lên tới 6 viên mỗi phút. Khẩu pháo này có nòng dài gấp 26 lần đường kính, có khả năng bắn kiểu cầu vồng hoặc bắn thẳng trực tiếp, sử dụng được nhiều loại đạn khác nhau. Nguồn ảnh: Sina.
Các loại đạn được Type 66 sử dụng bao gồm đạn nổ mảnh, đạn nổ mạnh, đạn xuyên phá hoặc đạn phát quang. Trung Quốc thậm chí còn tự chế tạo ra phiên bản đạn phản lực để gia tăng tầm bắn cho khẩu pháo này. Nguồn ảnh: Sina.
Phiên bản gốc D-20 của Liên Xô thậm chí còn có cả đầu đạn nguyên tử, tuy nhiên không có bằng chứng cho thấy Trung Quốc sở hữu loại vũ khí này. Tầm bắn tối đa của Type 66 là 22 km khi sử dụng đạn phản lực hoặc 17 km khi sử dụng đạn thường. Nguồn ảnh: Sina.
Khi mới được phục vụ trong lực lượng pháo binh Trung Quốc, PL-66 được coi là khẩu pháo hợp thời. Tuy nhiên tới những năm 70 khi phương Tây chuyển sang sử dụng pháo 105mm và 155mm, khẩu pháo này đã dần tỏ ra kém hiệu quả nhưng vẫn được Trung Quốc sử dụng tới tận ngày nay. Nguồn ảnh: Sina.
Kíp chiến đấu của PL-66 có tổng cộng 10 thành viên, tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, PL-66 vẫn có thể vận hành tốt với chỉ 6 người tuy nhiên tốc độ bắn sẽ bị giảm xuống đáng kể. Nguồn ảnh: Sina.
Thời gian cần thiết để chuyển khẩu pháo này từ trạng thái hành tiến sang trạng thái chiến đấu là 3 phút và thời gian chuyển pháo từ trạng thái chiến đấu sang trạng thái hành quân tốn từ 2 tới tối đa 3 phút. Nguồn ảnh: Sina.
Pháo binh Trung Quốc với khẩu PL-66 thắp sáng trời đêm. Nguồn ảnh: Sina.
Mặc dù đã lỗi thời, tuy nhiên khẩu pháo cỡ nòng 152mm này vẫn tiếp tục được phục vụ trong Quân đội Trung Quốc. Nguồn ảnh: Sina.
Cận cảnh trận địa pháo PL-66 của Trung Quốc đồng loạt khai hỏa. Nguồn ảnh: Sina.
Mời độc giả xem Video: Pháo lựu tự hành 155mm của Trung Quốc.