MBR-2 là một loại thuỷ phi cơ do Liên Xô sản xuất từ thập niên 30 của Thế kỉ XX, được thiết kế bởi G.M.Beriev và được sản xuất tại nhà máy số 31 Taganrog trong giai đoạn 1934-1940 với số lượng hơn 1.300 chiếc tất cả các phiên bản. Ở Liên Xô, MBR-2 mang biệt danh "Kорова" tức "con bò", đôi khi nó cũng được gọi là "Амбар" - nghĩa là "nhà kho".Đây là một loại máy bay đa dụng khi có thể thực hiện được nhiều nhiệm vụ khác nhau như trinh sát, vận tải, cường kích, chở khách... Nhưng hầu hết máy bay MBR-2 được biên chế cho các đơn vị Không quân Hải quân.Thủy phi cơ MBR-2 có khối lượng trống là 2,718 tấn, khối lượng cất cánh tối đa là 4,245 tấn. Phi hành đoàn điều khiển máy bay từ 4-5 người. Máy bay có chiều dài là 13,5m, sải cánh 19m, chiều cao 4,4m.MBR-2 sử dụng động cơ Mikulin AM-34N V12 750 mã lực, trần bay tối đa là 4,9km. Phạm vi hoạt động lên tới 1.500km, tốc độ tối đa đạt 275km/h. Vũ khí chính của máy bay gồm 1 súng máy 7,62mm PV-1, 1 súng máy 7,62mm ShKAS và 300kg bom, thuỷ lôi hoặc bom ngầm.Năm 1934, Hạm đội Biển Đen và Baltic đã được biên chế MBR-2; Hạm đội Thái Bình Dương là vào năm 1935 và tới năm 1937 là Hạm đội phương Bắc. Tới năm 1939, lực lượng Biên phòng cũng được biên chế một số lượng nhỏ máy bay MBR-2 cho đơn vị đóng quân tại thành phố cảng Odessa.Năm 1938, MBR-2 lần đầu tham chiến tại mặt trận Xô-Nhật. Trong khi giao tranh đang diễn ra tại khu vực Hồ Khasan, MBR-2 của Hạm đội Thái Bình Dương đã cất cánh từ Vladivostok và làm nhiệm vụ trinh sát tại Biển Nhật Bản.Trong cuộc xung đột ngắn này, những chiếc MBR-2 chỉ làm nhiệm vụ trinh sát, không tham gia chiến đấu trực tiếp. Trong cuộc chiến tranh Mùa Đông 1939-1940, các máy bay MBR-2 của Hạm đội Baltic và phương Bắc được sử dụng làm nhiệm vụ trinh sát và yểm trợ bộ binh.Tới Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, các hạm đội của Hải quân Liên Xô bố trí số thuỷ phi cơ MBR-2 làm các nhiệm vụ khác nhau. Tại Hạm đội phương Bắc, MBR-2 được sử dụng vào nhiệm vụ ném bom, chống ngầm, trinh sát và hộ tống đoàn tàu vận tải qua Cực Bắc.Tại hạm đội Baltic, do bị không quân Đức tấn công mạnh mẽ, 2/3 số MBR-2 của hạm đội đã bị tiêu diệt cho tới tháng 9/1941. Số còn lại chỉ được sử dụng tới giữa năm 1944 với nhiệm vụ ném bom đêm và yểm trợ cho lực lượng Hải quân đánh bộ.Tại hạm đội Biển Đen, những chiếc máy bay MBR-2 được sử dụng làm nhiệm vụ thả bom ngầm, trinh sát trên biển và làm cường kích tại khu vực đồng bằng sông Danube.Tuy nhiên, do MBR-2 khá chậm chạp nên dễ bị không quân Đức bắn hạ, tính tới tháng 7/1942 một nửa số MBR-2 của Liên Xô thuộc hạm đội Biển Đen đã bị loại khỏi vòng chiến đấu.Từ cuối năm 1942 tới năm 1944, MBR-2 của hạm đội Biển Đen chỉ được làm nhiệm vụ trong phạm vi 40 hải lý. Tại Hạm đội Thái Bình Dương, MBR-2 được sử dụng làm nhiệm vụ trinh sát, ném bom ban ngày và chở lính đổ bộ trong cuộc chiến ngắn ngủi chống lại Đế quốc Nhật Bản.Sau chiến tranh, MBR-2 dần bị loại bỏ khỏi biên chế Không quân Liên Xô và lực lượng Biên phòng từ năm 1946. Tới năm 1950, Hạm đội Thái Bình Dương đã loại biên hoàn toàn MBR-2 và chuyển giao một số ít cho Không quân Nhân dân Triều Tiên.MBR-2 trong biên chế Không quân Nhân dân Triều Tiên đã thực hiện 1 vài nhiệm vụ cường kích đêm vào vị trí của quân đội Mỹ và Hàn Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên nhưng hiệu quả không lớn. Ngoài ra, một số lượng nhỏ MBR-2 chiến lợi phẩm cũng được Không quân Phần Lan sử dụng. Nguồn ảnh: Warhistory. Cận cảnh những động tác bay cực kỳ nặng nề và vụng về của thủy phi cơ Beriev MBR-2. Nguồn: Yolk.
MBR-2 là một loại thuỷ phi cơ do Liên Xô sản xuất từ thập niên 30 của Thế kỉ XX, được thiết kế bởi G.M.Beriev và được sản xuất tại nhà máy số 31 Taganrog trong giai đoạn 1934-1940 với số lượng hơn 1.300 chiếc tất cả các phiên bản. Ở Liên Xô, MBR-2 mang biệt danh "Kорова" tức "con bò", đôi khi nó cũng được gọi là "Амбар" - nghĩa là "nhà kho".
Đây là một loại máy bay đa dụng khi có thể thực hiện được nhiều nhiệm vụ khác nhau như trinh sát, vận tải, cường kích, chở khách... Nhưng hầu hết máy bay MBR-2 được biên chế cho các đơn vị Không quân Hải quân.
Thủy phi cơ MBR-2 có khối lượng trống là 2,718 tấn, khối lượng cất cánh tối đa là 4,245 tấn. Phi hành đoàn điều khiển máy bay từ 4-5 người. Máy bay có chiều dài là 13,5m, sải cánh 19m, chiều cao 4,4m.
MBR-2 sử dụng động cơ Mikulin AM-34N V12 750 mã lực, trần bay tối đa là 4,9km. Phạm vi hoạt động lên tới 1.500km, tốc độ tối đa đạt 275km/h. Vũ khí chính của máy bay gồm 1 súng máy 7,62mm PV-1, 1 súng máy 7,62mm ShKAS và 300kg bom, thuỷ lôi hoặc bom ngầm.
Năm 1934, Hạm đội Biển Đen và Baltic đã được biên chế MBR-2; Hạm đội Thái Bình Dương là vào năm 1935 và tới năm 1937 là Hạm đội phương Bắc. Tới năm 1939, lực lượng Biên phòng cũng được biên chế một số lượng nhỏ máy bay MBR-2 cho đơn vị đóng quân tại thành phố cảng Odessa.
Năm 1938, MBR-2 lần đầu tham chiến tại mặt trận Xô-Nhật. Trong khi giao tranh đang diễn ra tại khu vực Hồ Khasan, MBR-2 của Hạm đội Thái Bình Dương đã cất cánh từ Vladivostok và làm nhiệm vụ trinh sát tại Biển Nhật Bản.
Trong cuộc xung đột ngắn này, những chiếc MBR-2 chỉ làm nhiệm vụ trinh sát, không tham gia chiến đấu trực tiếp. Trong cuộc chiến tranh Mùa Đông 1939-1940, các máy bay MBR-2 của Hạm đội Baltic và phương Bắc được sử dụng làm nhiệm vụ trinh sát và yểm trợ bộ binh.
Tới Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, các hạm đội của Hải quân Liên Xô bố trí số thuỷ phi cơ MBR-2 làm các nhiệm vụ khác nhau. Tại Hạm đội phương Bắc, MBR-2 được sử dụng vào nhiệm vụ ném bom, chống ngầm, trinh sát và hộ tống đoàn tàu vận tải qua Cực Bắc.
Tại hạm đội Baltic, do bị không quân Đức tấn công mạnh mẽ, 2/3 số MBR-2 của hạm đội đã bị tiêu diệt cho tới tháng 9/1941. Số còn lại chỉ được sử dụng tới giữa năm 1944 với nhiệm vụ ném bom đêm và yểm trợ cho lực lượng Hải quân đánh bộ.
Tại hạm đội Biển Đen, những chiếc máy bay MBR-2 được sử dụng làm nhiệm vụ thả bom ngầm, trinh sát trên biển và làm cường kích tại khu vực đồng bằng sông Danube.
Tuy nhiên, do MBR-2 khá chậm chạp nên dễ bị không quân Đức bắn hạ, tính tới tháng 7/1942 một nửa số MBR-2 của Liên Xô thuộc hạm đội Biển Đen đã bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Từ cuối năm 1942 tới năm 1944, MBR-2 của hạm đội Biển Đen chỉ được làm nhiệm vụ trong phạm vi 40 hải lý. Tại Hạm đội Thái Bình Dương, MBR-2 được sử dụng làm nhiệm vụ trinh sát, ném bom ban ngày và chở lính đổ bộ trong cuộc chiến ngắn ngủi chống lại Đế quốc Nhật Bản.
Sau chiến tranh, MBR-2 dần bị loại bỏ khỏi biên chế Không quân Liên Xô và lực lượng Biên phòng từ năm 1946. Tới năm 1950, Hạm đội Thái Bình Dương đã loại biên hoàn toàn MBR-2 và chuyển giao một số ít cho Không quân Nhân dân Triều Tiên.
MBR-2 trong biên chế Không quân Nhân dân Triều Tiên đã thực hiện 1 vài nhiệm vụ cường kích đêm vào vị trí của quân đội Mỹ và Hàn Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên nhưng hiệu quả không lớn. Ngoài ra, một số lượng nhỏ MBR-2 chiến lợi phẩm cũng được Không quân Phần Lan sử dụng. Nguồn ảnh: Warhistory.
Cận cảnh những động tác bay cực kỳ nặng nề và vụng về của thủy phi cơ Beriev MBR-2. Nguồn: Yolk.