Nhằm tiếp tục nâng cao tính năng của máy bay tiêm kích MiG-21 và Su-15, mùa Đông năm 1971 chính phủ Liên Xô ra nghị quyết yêu cầu Phòng thiết kế chế tạo máy MKB Soyuz ở Ufa chế tạo mới động cơ turbojet R-25-300 có sức đẩy cất cánh 7.100 KG (gần 71.000 KN), còn khi bay thấp với tốc độ âm thanh là 9.900 KG (99.000 KN). Nguồn ảnh: FlicksTrên cơ sở động cơ mới, dự án nâng cấp tiêm kích MiG-21 chính thức bắt đầu. Đây được xem là phiên bản sản xuất hàng loạt cuối cùng của dòng máy bay này – được định danh là MiG-21bis. Việc sản xuất được triển khai ngay trong năm đó (1971) tại nhà máy ở thành phố Gorkiy. Nguồn ảnh: Airlines.netNgoài động cơ tuốc bin phản lực có tăng tốc TRDF dành cho tiêm kích MiG-21bis, người ta đã hoàn thiện hệ thống nhiên liệu, các điểm dự trữ đã được tìm ra (chủ yếu nhờ thùng dầu phụ) đã cho phép tăng dung tích hệ thống nhiên liệu thêm gần 239 lít, do đó bù trừ được phần mất tầm bay xa do tiêu hao nhiên liệu đã tăng lên. Nguồn ảnh: Airlines.netPhải ghi nhận công sức của các nhà sản xuất động cơ MKB Soyuz, họ đã hoàn thành nhiệm vụ. R25-300 đã tạo ra lực đẩy ở chế độ khẩn cấp 7.100 KG, còn khi tăng tốc cấp một– 6.850 KG. Vẫn giữ nguyên kích thước của mẫu động cơ trước đó, trọng lượng khô của động cơ tăng không đáng kể và đã không vượt quá 1.215Kg. Nguồn ảnh: airforce.ruThực tế tính năng lực đẩy của động cơ R25-300 đã vượt quá yêu cầu ban đầu, do đó đã cho phép tăng, ví dụ, tốc độ lấy độ cao của máy bay gần như lên 1,6 lần, đạt tới 235 m/giây ở độ cao thấp (khi tốc độ máy bay tương ứng số M= 0,9). Nguồn ảnh: Digital Combat SimulatorPhải ghi nhận, rằng cho đến thời điểm này thực chất toàn bộ dự trữ của máy bay MiG-21, kể cả các khoang bên trong thân đã cạn kiệt. Trình độ công nghệ chế tạo dụng cụ đo lường và cơ sở linh kiện của thiết bị vô tuyến điện tử hàng không khi đó đã không cho phép cải thiện đáng kể các thông số của máy ngắm radar có kích thước không lớn và mở rộng khả năng chiến đấu của máy bay. Chỉ có các tên lửa có điều khiển là ngoại lệ hiếm hoi, nhưng ngay trong lĩnh vực này sự lựa chọn cũng không phải là lớn. Nguồn ảnh: RichardSo với các biến thể trước của MiG-21, máy bay tiêm kích MiG-21bis được cải tiến cánh, thiết bị trên máy bay được hoàn thiện thêm, tăng đáng kể danh sách vũ khí. Nguồn ảnh: Airlines.netTrang thiết bị trên máy bay radar Saphir-21; máy ngắm quang học ASP-PFD-21; tổ hợp dẫn đường - lái PNK Polyot-OI gồm hệ thống lái tự động SVU-23YeSN; hệ thống dẫn đường gần và hạ cánh RSBSN-5S. Nguồn ảnh: bredow-wedMáy bay vẫn giữ lại kênh thông tin liên lạc chống nhiễu Lazur, kênh này đảm bảo liên lạc với hệ thống chỉ huy tự động trên mặt đất Vozdukh-1. Nguồn ảnh: Airlines.netPhi công được trang bị ghế phóng dù KM-1 hoặc KM-1M, thiết bị thu áp suất không khí PVD-18. Nguồn ảnh: Airlines.netNăm 1972 nhà máy hàng không ở thành phố Gorkiy đã chế tạo 35 chiếc tiêm kích đánh chặn MiG-21bis đầu tiên, và ngay trong năm đó máy bay được đưa vào trang bị. Nguồn ảnh: Airlines.netMiG-21bis so với các biến thể trước đó có tính năng cơ động và tăng tốc tốt hơn, có tốc độ lấy độ cao lớn hơn. Khả năng cơ động của máy bay gần bằng các tính năng tương ứng của máy bay tiêm kích thế hệ bốn F-15, F-16 và Mirage 2000. Diện tích tán xạ radar (RCS) của máy bay này gần bằng tính năng của máy bay tiêm kích F-16. Nguồn ảnh: Airlines.netTừ năm 1972 đến năm 1985, các nhà máy đã chế tạo 2.013 chiếc MiG-21bis với ba cấu hình chủ yếu: sản phẩm “75” cho Không quân của bộ đội Phòng không của Liên Xô (PVO); “75A” cho các nước xã hội chủ nghĩa và “75B” cho các nước tư bản chủ nghĩa và đang phát triển. Nguồn ảnh: Airlines.netCác phiên bản của MiG-21bis có sự khác biệt nhất định. Ví dụ, máy bay của PVO được lắp thiết bị dẫn đường Lazur, các máy bay khác thì có hệ thống hạ cánh mù cho phép đi vào đường băng cất hạ cánh VPP khi trần mây che phủ không dưới 100 mét và tầm nhìn xa đến 1.000 mét. Các phiên bản xuất khẩu được lắp máy ngắm RAS Almaz được nghiên cứu chế tạo tại Liên hợp khoa học sản xuất NPO Almaz đã được hoàn thiện, có khả năng sử dụng tên lửa R-3R và R-13M với cự li phát hiện mục tiêu (mục tiêu có RCS 5m2) là 14 Km và tự dẫn là 10 Km. Máy bay chấp nhận sử dụng tên lửa R-55, R-60. Nguồn ảnh: Airlines.netTải trọng vũ khí của tiêm kích MiG-21bis khoảng 1,3 tấn cho phép triển khai đến 4 tên lửa không đối không tầm nhiệt K-13M, RS-2US, R-3S, R-3R, R-60 và R-60M; hoặc có thể mang rocket cỡ 57 và 240mm hoặc các loại bom rơi tự do cỡ 500kg. 4 giá treo có thể cho phép mang “pháo thuyền” (gun pod), máy ảnh hàng không các phương tiện trinh sát vô tuyến điện tử. Trong thân máy bay được bố trí một khẩu pháo hàng không GSh-23L cỡ 23mm với kho đạn 200 viên. Nguồn ảnh: WikipediaTiêm kích MiG-21bis bắt đầu gia nhập Không quân Nhân dân Việt Nam từ năm 1979. Đó có thể là phiên bản MiG-21bis 75A dành cho khối xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, đa số các máy bay MiG-21bis đã ra khỏi trang bị không quân ta do hết hạn sử dụng. Nguồn ảnh: Airlines.net
Nhằm tiếp tục nâng cao tính năng của máy bay tiêm kích MiG-21 và Su-15, mùa Đông năm 1971 chính phủ Liên Xô ra nghị quyết yêu cầu Phòng thiết kế chế tạo máy MKB Soyuz ở Ufa chế tạo mới động cơ turbojet R-25-300 có sức đẩy cất cánh 7.100 KG (gần 71.000 KN), còn khi bay thấp với tốc độ âm thanh là 9.900 KG (99.000 KN). Nguồn ảnh: Flicks
Trên cơ sở động cơ mới, dự án nâng cấp tiêm kích MiG-21 chính thức bắt đầu. Đây được xem là phiên bản sản xuất hàng loạt cuối cùng của dòng máy bay này – được định danh là MiG-21bis. Việc sản xuất được triển khai ngay trong năm đó (1971) tại nhà máy ở thành phố Gorkiy. Nguồn ảnh: Airlines.net
Ngoài động cơ tuốc bin phản lực có tăng tốc TRDF dành cho tiêm kích MiG-21bis, người ta đã hoàn thiện hệ thống nhiên liệu, các điểm dự trữ đã được tìm ra (chủ yếu nhờ thùng dầu phụ) đã cho phép tăng dung tích hệ thống nhiên liệu thêm gần 239 lít, do đó bù trừ được phần mất tầm bay xa do tiêu hao nhiên liệu đã tăng lên. Nguồn ảnh: Airlines.net
Phải ghi nhận công sức của các nhà sản xuất động cơ MKB Soyuz, họ đã hoàn thành nhiệm vụ. R25-300 đã tạo ra lực đẩy ở chế độ khẩn cấp 7.100 KG, còn khi tăng tốc cấp một– 6.850 KG. Vẫn giữ nguyên kích thước của mẫu động cơ trước đó, trọng lượng khô của động cơ tăng không đáng kể và đã không vượt quá 1.215Kg. Nguồn ảnh: airforce.ru
Thực tế tính năng lực đẩy của động cơ R25-300 đã vượt quá yêu cầu ban đầu, do đó đã cho phép tăng, ví dụ, tốc độ lấy độ cao của máy bay gần như lên 1,6 lần, đạt tới 235 m/giây ở độ cao thấp (khi tốc độ máy bay tương ứng số M= 0,9). Nguồn ảnh: Digital Combat Simulator
Phải ghi nhận, rằng cho đến thời điểm này thực chất toàn bộ dự trữ của máy bay MiG-21, kể cả các khoang bên trong thân đã cạn kiệt. Trình độ công nghệ chế tạo dụng cụ đo lường và cơ sở linh kiện của thiết bị vô tuyến điện tử hàng không khi đó đã không cho phép cải thiện đáng kể các thông số của máy ngắm radar có kích thước không lớn và mở rộng khả năng chiến đấu của máy bay. Chỉ có các tên lửa có điều khiển là ngoại lệ hiếm hoi, nhưng ngay trong lĩnh vực này sự lựa chọn cũng không phải là lớn. Nguồn ảnh: Richard
So với các biến thể trước của MiG-21, máy bay tiêm kích MiG-21bis được cải tiến cánh, thiết bị trên máy bay được hoàn thiện thêm, tăng đáng kể danh sách vũ khí. Nguồn ảnh: Airlines.net
Trang thiết bị trên máy bay radar Saphir-21; máy ngắm quang học ASP-PFD-21; tổ hợp dẫn đường - lái PNK Polyot-OI gồm hệ thống lái tự động SVU-23YeSN; hệ thống dẫn đường gần và hạ cánh RSBSN-5S. Nguồn ảnh: bredow-wed
Máy bay vẫn giữ lại kênh thông tin liên lạc chống nhiễu Lazur, kênh này đảm bảo liên lạc với hệ thống chỉ huy tự động trên mặt đất Vozdukh-1. Nguồn ảnh: Airlines.net
Phi công được trang bị ghế phóng dù KM-1 hoặc KM-1M, thiết bị thu áp suất không khí PVD-18. Nguồn ảnh: Airlines.net
Năm 1972 nhà máy hàng không ở thành phố Gorkiy đã chế tạo 35 chiếc tiêm kích đánh chặn MiG-21bis đầu tiên, và ngay trong năm đó máy bay được đưa vào trang bị. Nguồn ảnh: Airlines.net
MiG-21bis so với các biến thể trước đó có tính năng cơ động và tăng tốc tốt hơn, có tốc độ lấy độ cao lớn hơn. Khả năng cơ động của máy bay gần bằng các tính năng tương ứng của máy bay tiêm kích thế hệ bốn F-15, F-16 và Mirage 2000. Diện tích tán xạ radar (RCS) của máy bay này gần bằng tính năng của máy bay tiêm kích F-16. Nguồn ảnh: Airlines.net
Từ năm 1972 đến năm 1985, các nhà máy đã chế tạo 2.013 chiếc MiG-21bis với ba cấu hình chủ yếu: sản phẩm “75” cho Không quân của bộ đội Phòng không của Liên Xô (PVO); “75A” cho các nước xã hội chủ nghĩa và “75B” cho các nước tư bản chủ nghĩa và đang phát triển. Nguồn ảnh: Airlines.net
Các phiên bản của MiG-21bis có sự khác biệt nhất định. Ví dụ, máy bay của PVO được lắp thiết bị dẫn đường Lazur, các máy bay khác thì có hệ thống hạ cánh mù cho phép đi vào đường băng cất hạ cánh VPP khi trần mây che phủ không dưới 100 mét và tầm nhìn xa đến 1.000 mét. Các phiên bản xuất khẩu được lắp máy ngắm RAS Almaz được nghiên cứu chế tạo tại Liên hợp khoa học sản xuất NPO Almaz đã được hoàn thiện, có khả năng sử dụng tên lửa R-3R và R-13M với cự li phát hiện mục tiêu (mục tiêu có RCS 5m2) là 14 Km và tự dẫn là 10 Km. Máy bay chấp nhận sử dụng tên lửa R-55, R-60. Nguồn ảnh: Airlines.net
Tải trọng vũ khí của tiêm kích MiG-21bis khoảng 1,3 tấn cho phép triển khai đến 4 tên lửa không đối không tầm nhiệt K-13M, RS-2US, R-3S, R-3R, R-60 và R-60M; hoặc có thể mang rocket cỡ 57 và 240mm hoặc các loại bom rơi tự do cỡ 500kg. 4 giá treo có thể cho phép mang “pháo thuyền” (gun pod), máy ảnh hàng không các phương tiện trinh sát vô tuyến điện tử. Trong thân máy bay được bố trí một khẩu pháo hàng không GSh-23L cỡ 23mm với kho đạn 200 viên. Nguồn ảnh: Wikipedia
Tiêm kích MiG-21bis bắt đầu gia nhập Không quân Nhân dân Việt Nam từ năm 1979. Đó có thể là phiên bản MiG-21bis 75A dành cho khối xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, đa số các máy bay MiG-21bis đã ra khỏi trang bị không quân ta do hết hạn sử dụng. Nguồn ảnh: Airlines.net