Chiếc chiến xa có trọng lượng lên tới 62 tấn này được thiết kế chủ yếu nhằm chống lại các phương tiện bọc thép của khối quân sự Warsaw ở châu Âu, chủ yếu do Liên Xô sản xuất có số lượng khá đông đảo. Xe tăng Challenger I được sản xuất để thay thế loại Chieftain đã lỗi thời phục vụ từ giữa những năm 1960. So với “người tiền nhiệm”, chiếc MBT mới có giáp phức hợp composite cực kỳ vững chắc, hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến với kính ngắm ảnh nhiệt tối tân.Tuy vậy, động cơ diesel tăng áp V-1200 Condor công suất mặc dù đã lên tới 1.200 mã lực nhưng vẫn tỏ ra không đủ mạnh mẽ đối với một chiếc xe tăng hạng nặng như vậy.Xe tăng chủ lực Challenger I bị coi là xe tăng chậm nhất trong thế hệ thứ ba của phương Tây, nó chỉ đạt vận tốc 56 km/h trên đường nhựa, trong khi các đối thủ của nó đạt tới con số 70 km/h. Phạm vi hoạt động căn cứ lượng nhiên liệu mang theo cũng khá thấp, chỉ được 400 km.Một số chuyên gia coi vũ khí chính của xe tăng chủ lực Challenger I là điểm yếu, khi khẩu pháo nòng xoắn 120 mm áp dụng công nghệ cũ kém hơn về các đặc tính cơ bản so với nhiều loại pháo nòng trơn.Nhưng hóa ra khẩu pháo chính L11A5 đã có màn thể hiện khá thành công trước công nghệ Liên Xô được phát triển từ thập niên 1950, trong cuộc chiến tại Kuwait vào năm 1990.Là một phần của lực lượng đa quốc gia, hơn 150 chiếc Challenger I đã được quân đội Anh tung vào trận chiến tháng 2/1991 nhằm chống lại quân đội Iraq.Challenger I tỏ ra ra áp đảo đội hình của đối phương, được trang bị chủ yếu là xe tăng T-55 hạng trung, không thể cạnh tranh ngang bằng với công nghệ hiện đại của NATO.Do đó không có gì ngạc nhiên khi đọc về các “kỷ lục” của Anh, như việc Challenger I đã đánh bại T-55 ở các cự ly 3.600 và 4.700 mét. Tổng cộng, Challenger I đã phá hủy 300 xe bọc thép của đối phương. Đồng thời, chỉ có 1 chiếc bị hư hại đến mức không thể sửa chữa.Tuy vậy khi dễ dàng “đè bẹp” xe tăng Iraq, kẻ thù chính của chiến xa Anh lại chính là sa mạc, khiến cho thiết bị không hoạt động được do gặp phải nhiều sự cố khác nhau, chủ yếu liên quan đến cát và nhiệt độ cao.Bên cạnh đó, trọng lượng bản thân lớn lớn ảnh hưởng xấu đến khả năng cơ động của Challenger I. Đôi khi xe tăng không thể vượt qua các công sự thông thường của quân Iraq, và việc giải cứu những chiếc mắc kẹt là một vấn đề rất lớn.Xe tăng chiến đấu chủ lực Challenger I phục vụ một thời gian tương đối ngắn trong quân đội Anh, 10 năm sau khi bắt đầu sản xuất hàng loạt, chúng bắt đầu được thay thế bằng biến thể Challenger II.Mặc dù tiên tiến hơn nhiều, tuy nhiên phiên bản nâng cấp của chiếc chiến xa này cũng bị nhận xét là vẫn giữ lại những "căn bệnh kinh niên" của xe bọc thép Anh nói chung.Hiện tại quân đội Anh đang cắt giảm số lượng lớn xe tăng của mình, những chiếc còn phục vụ dự kiến cũng sẽ được nâng cấp sâu bằng công nghệ của Đức.
Chiếc chiến xa có trọng lượng lên tới 62 tấn này được thiết kế chủ yếu nhằm chống lại các phương tiện bọc thép của khối quân sự Warsaw ở châu Âu, chủ yếu do Liên Xô sản xuất có số lượng khá đông đảo.
Xe tăng Challenger I được sản xuất để thay thế loại Chieftain đã lỗi thời phục vụ từ giữa những năm 1960. So với “người tiền nhiệm”, chiếc MBT mới có giáp phức hợp composite cực kỳ vững chắc, hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến với kính ngắm ảnh nhiệt tối tân.
Tuy vậy, động cơ diesel tăng áp V-1200 Condor công suất mặc dù đã lên tới 1.200 mã lực nhưng vẫn tỏ ra không đủ mạnh mẽ đối với một chiếc xe tăng hạng nặng như vậy.
Xe tăng chủ lực Challenger I bị coi là xe tăng chậm nhất trong thế hệ thứ ba của phương Tây, nó chỉ đạt vận tốc 56 km/h trên đường nhựa, trong khi các đối thủ của nó đạt tới con số 70 km/h. Phạm vi hoạt động căn cứ lượng nhiên liệu mang theo cũng khá thấp, chỉ được 400 km.
Một số chuyên gia coi vũ khí chính của xe tăng chủ lực Challenger I là điểm yếu, khi khẩu pháo nòng xoắn 120 mm áp dụng công nghệ cũ kém hơn về các đặc tính cơ bản so với nhiều loại pháo nòng trơn.
Nhưng hóa ra khẩu pháo chính L11A5 đã có màn thể hiện khá thành công trước công nghệ Liên Xô được phát triển từ thập niên 1950, trong cuộc chiến tại Kuwait vào năm 1990.
Là một phần của lực lượng đa quốc gia, hơn 150 chiếc Challenger I đã được quân đội Anh tung vào trận chiến tháng 2/1991 nhằm chống lại quân đội Iraq.
Challenger I tỏ ra ra áp đảo đội hình của đối phương, được trang bị chủ yếu là xe tăng T-55 hạng trung, không thể cạnh tranh ngang bằng với công nghệ hiện đại của NATO.
Do đó không có gì ngạc nhiên khi đọc về các “kỷ lục” của Anh, như việc Challenger I đã đánh bại T-55 ở các cự ly 3.600 và 4.700 mét. Tổng cộng, Challenger I đã phá hủy 300 xe bọc thép của đối phương. Đồng thời, chỉ có 1 chiếc bị hư hại đến mức không thể sửa chữa.
Tuy vậy khi dễ dàng “đè bẹp” xe tăng Iraq, kẻ thù chính của chiến xa Anh lại chính là sa mạc, khiến cho thiết bị không hoạt động được do gặp phải nhiều sự cố khác nhau, chủ yếu liên quan đến cát và nhiệt độ cao.
Bên cạnh đó, trọng lượng bản thân lớn lớn ảnh hưởng xấu đến khả năng cơ động của Challenger I. Đôi khi xe tăng không thể vượt qua các công sự thông thường của quân Iraq, và việc giải cứu những chiếc mắc kẹt là một vấn đề rất lớn.
Xe tăng chiến đấu chủ lực Challenger I phục vụ một thời gian tương đối ngắn trong quân đội Anh, 10 năm sau khi bắt đầu sản xuất hàng loạt, chúng bắt đầu được thay thế bằng biến thể Challenger II.
Mặc dù tiên tiến hơn nhiều, tuy nhiên phiên bản nâng cấp của chiếc chiến xa này cũng bị nhận xét là vẫn giữ lại những "căn bệnh kinh niên" của xe bọc thép Anh nói chung.
Hiện tại quân đội Anh đang cắt giảm số lượng lớn xe tăng của mình, những chiếc còn phục vụ dự kiến cũng sẽ được nâng cấp sâu bằng công nghệ của Đức.