Nguyên bản của M119 là pháo kéo L118 do Anh sản xuất và đưa vào trang bị từ năm 1975.Trong cuộc chiến giữa Anh và Argentina liên quan tới tranh chấp đảo Falkland (Argentina gọi là Malvinas) năm 1982, Anh đã sử dụng 30 khẩu pháo loại này với mật độ bắn lên tới 400 phát /mỗi khẩu /mỗi ngày. Cuộc chiến này kéo dài từ ngày 2/4-14/6/1982.Năm 1987, Mỹ đạt được với Anh thỏa thuận về giấy phép sản xuất phiên bản cải tiến của loại pháo này (L119) nhằm thay thế cho loại M102 105 mm.Khi đưa vào trang bị, Mỹ gọi loại pháo này là M119.M119 vẫn là phiên bản pháo kéo, có nhiệm vụ chủ yếu là yểm trợ lực lượng bộ binh.Pháo được kéo bằng các loại xe tải hoặc các loại xe bánh hơi có khả năng việt dã cao. Lựu pháo M119 cũng có thể được vận chuyển đường không bằng các loại trực thăng UH-60 (1 khẩu) hoặc CH-47 (2 khẩu, khi cần có thể tới 6 khẩu) và các phương thức đổ bộ khác như thả dù.M119 nặng khoảng 2 tấn, có khả năng sử dụng tất cả các loại đạn 105 mm tiêu chuẩn của NATO, trong đó M913 HERA có tầm bắn xa nhất là 19,5 km. Pháo M119 sử dụng cỡ nòng 105mm với tầm bắn xa tối đa lên tới 19.500 m.Tốc độ bắn tối đa lên tới 8 viên mỗi phút.Tuy nhiên khi khai hoả ở tốc độ 8 viên mỗi phút, khẩu pháo này chỉ duy trì được trong khoảng thời gian tối đa 3 phút - nghĩa là khoảng 24 phát đạn trước khi cần nghỉ để làm nguội nòng cũng như toàn bộ cơ cấu bệ khoá nòng.Pháo có biên chế kíp chiến đấu đầy đủ từ 5 tới 7 người.Cho tới nay, đã có 3 phiên bản M119 được phát triển gồm M119A1/A2/A3. Năm 2009, Mỹ đã mang M119A2 sang các chiến trường Afghanistan và Iraq. Loại pháo này có hiệu quả cao trong tiêu diệt lực lượng mặt đất và phá hủy công sự bằng hỏa lực cầu vồng.Hiện phiên bản mới nhất được trang bị hệ thống dẫn đường quán tính (INU) sử dụng GPS cho phép xác định chính xác tọa độ của chính khẩu pháo trên thực địa.
Nguyên bản của M119 là pháo kéo L118 do Anh sản xuất và đưa vào trang bị từ năm 1975.
Trong cuộc chiến giữa Anh và Argentina liên quan tới tranh chấp đảo Falkland (Argentina gọi là Malvinas) năm 1982, Anh đã sử dụng 30 khẩu pháo loại này với mật độ bắn lên tới 400 phát /mỗi khẩu /mỗi ngày. Cuộc chiến này kéo dài từ ngày 2/4-14/6/1982.
Năm 1987, Mỹ đạt được với Anh thỏa thuận về giấy phép sản xuất phiên bản cải tiến của loại pháo này (L119) nhằm thay thế cho loại M102 105 mm.
Khi đưa vào trang bị, Mỹ gọi loại pháo này là M119.
M119 vẫn là phiên bản pháo kéo, có nhiệm vụ chủ yếu là yểm trợ lực lượng bộ binh.
Pháo được kéo bằng các loại xe tải hoặc các loại xe bánh hơi có khả năng việt dã cao.
Lựu pháo M119 cũng có thể được vận chuyển đường không bằng các loại trực thăng UH-60 (1 khẩu) hoặc CH-47 (2 khẩu, khi cần có thể tới 6 khẩu) và các phương thức đổ bộ khác như thả dù.
M119 nặng khoảng 2 tấn, có khả năng sử dụng tất cả các loại đạn 105 mm tiêu chuẩn của NATO, trong đó M913 HERA có tầm bắn xa nhất là 19,5 km.
Pháo M119 sử dụng cỡ nòng 105mm với tầm bắn xa tối đa lên tới 19.500 m.
Tốc độ bắn tối đa lên tới 8 viên mỗi phút.
Tuy nhiên khi khai hoả ở tốc độ 8 viên mỗi phút, khẩu pháo này chỉ duy trì được trong khoảng thời gian tối đa 3 phút - nghĩa là khoảng 24 phát đạn trước khi cần nghỉ để làm nguội nòng cũng như toàn bộ cơ cấu bệ khoá nòng.
Pháo có biên chế kíp chiến đấu đầy đủ từ 5 tới 7 người.
Cho tới nay, đã có 3 phiên bản M119 được phát triển gồm M119A1/A2/A3. Năm 2009, Mỹ đã mang M119A2 sang các chiến trường Afghanistan và Iraq. Loại pháo này có hiệu quả cao trong tiêu diệt lực lượng mặt đất và phá hủy công sự bằng hỏa lực cầu vồng.
Hiện phiên bản mới nhất được trang bị hệ thống dẫn đường quán tính (INU) sử dụng GPS cho phép xác định chính xác tọa độ của chính khẩu pháo trên thực địa.