Mặc dù không thuộc thế hệ trực tiếp tham gia các trận chiến đấu trên không như những lớp đàn anh đi trước, nhưng với Đại tá Vũ Văn Sỹ, Phó Hiệu trưởng, Tham mưu trưởng, Trường Sĩ quan Không quân lại mang nhiều chiến công trong huấn luyện đào tạo học viên phi công quân sự tại trường.
Sinh ra trên quê hương Yên Thế, Bắc Giang. Năm 1979, trong một lần đoàn bác sĩ của Quân chủng PK-KQ về khám tuyển phi công tại địa phương, Đại tá Vũ Văn Sỹ đã tham gia khám và đủ tiêu chuẩn vào trường dự khóa bay học văn hóa, lý thuyết cơ bản, rồi sau đó vào Trường Sĩ quan Không quân thực hành bay trên hai loại máy bay L-39 và Mig-21.
|
Đại tá Vũ Văn Sỹ trong một chuyến bay trên máy bay L-39. |
Năm 1983 tốt nghiệp ra trường, anh được điều về Trung đoàn 929, Sư đoàn Không quân 372, sau đó tiếp tục về Trung đoàn 927, Sư đoàn Không quân 371 bay trực ban chiến đấu. Với tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi cùng với 4 năm kinh nghiệm bay trực ban chiến đấu tại đơn vị, năm 1987, Đại tá Vũ Văn Sỹ được trên tin tưởng điều về Trung đoàn 920, Trường Sĩ quan Không quân làm giảng viên bay trên loại máy bay Mig-21.
Trong suốt 22 năm (từ 1987 đến 2009) làm giảng viên trên “giảng đường mây” anh đã tích luỹ được gần 1.700 giờ bay, huấn luyện và đào tạo được 45 học viên phi công tốt nghiệp ra trường với tỉ lệ thành công trên 90%. Ngoài ra, anh còn tham gia chỉ huy trên 200 ban bay và xử lý thành công 15 vụ uy hiếp mất an toàn bay trên không.
Nói về những kỷ niệm trong quãng thời gian làm giảng viên bay của mình, Đại tá Vũ Văn Sỹ bồi hồi nhớ lại: Ngày 16/6/1992, trong ban bay huấn luyện phục vụ đoàn kiểm tra của Quân chủng, tôi và Thượng tá Bùi Doãn Độ, thanh tra bay Quân chủng thực hiện bài bay nhào lộn phức tạp trên chiếc máy bay mang số hiệu 8217, sau khi hoàn thành bài bay trở về hạ cánh, đến vòng 3 anh thực hiện động tác thả càng nhưng càng không ra, sau khi báo cáo và được phép của chỉ huy bay, anh vừa thực hiện lại động tác thả càng, vừa làm quá tải nhiều lần cho càng ra nhưng vẫn không được, trong khi đồng hồ lượng dầu báo chỉ còn trên 220 lít (lượng dầu dưới mức nguy hiểm). Mọi người trên sân bay ai cũng hồi hộp lo lắng cho anh và đồng đội ngồi buồng lái sau. Khi biết càng không thể ra được, chỉ huy bay cho phép anh tìm vị trí thuận lợi để thoát ly nhảy dù, nhưng trong đầu chợt lóe lên suy nghĩ, nếu nhảy dù thì tính mạng mình và đồng đội ngồi buồng lái sau sẽ được an toàn nhưng tài sản của Nhà nước và Quân đội sẽ mất, sau vài giây suy nghĩ anh quyết định xin phép chỉ huy bay được hạ cánh trượt bụng để giữ máy bay. Được chỉ huy bay đồng ý, tôi bình tĩnh xử lý tình huống để đưa máy bay hạ cánh trượt bụng xuống đường băng đất an toàn trong niềm vui vỡ òa của đồng đội trên sân bay.
|
Đại tá Vũ Văn Sỹ, giảng bình cho học viên phi công Mig-21 sau chuyến bay. |
Do bị chấn thương khi hạ cánh, anh được trên xét hưởng chế độ thương binh hạng 4/4, thành tích của anh không những giữ được khối tài sản lớn cho Nhà nước, Quân đội mà còn là bài học về lòng dũng cảm, bình tĩnh, sáng suốt trong xử lý tình huống bất trắc trên không của người giảng viên phi công.
Nhờ có kinh nghiệm xử lý tình huống ấy nên ngày 27/6/2006, trong ban bay huấn luyện do anh trực tiếp chỉ huy bay, máy bay của Trung úy Ngô Sĩ Minh, Biên đội trưởng khi về hạ cánh cũng thả càng không ra, sau nhiều lần ra lệnh cho phi công làm quá tải để càng văng ra không được, máy bay đã gần hết nhiên liệu, có thể cho phép phi công nhảy dù được, nhưng anh đã bĩnh tĩnh hỏi phi công nên nhảy dù hay quyết tâm hạ cánh trượt bụng. Sau sự việc đó, Phi công Ngô Sĩ Minh đã được vinh danh là một trong 10 gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quốc năm 2006 và được tham dự chương trình truyền hình “Mãi mãi tuổi hai mươi”, còn bản thân anh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng nhất và Bằng khen của Bộ Quốc phòng.
Thiếu tướng Nguyễn Duy Cường, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Không quân, người từng sát cánh bay cùng với anh những năm còn ở Trung đoàn 940 cho biết: Đại tá Vũ Văn Sỹ là một giảng viên bay luôn tận tụy với nghề, thường xuyên quan tâm, nhắc nhở, yêu thương các thế hệ phi công như người cha, người anh. Trong quá trình giảng dạy, anh luôn thể hiện là người có năng lực trình độ sư phạm, bên cạnh đó anh còn là một chỉ huy bay giỏi, có nhiều đóng góp trong đổi mới phương pháp huấn luyện, giảng dạy đào tạo phi công và chỉ huy bay. Năm 2012, anh đã nghiên cứu và bảo vệ thành công đề tài cấp Bộ như: Xây dựng quy trình, chương trình đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, phi công quân sự tại Trường Sĩ quan Không quân, đề tài được đánh giá xuất sắc và được đưa vào ứng dụng tại đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện đào tạo phi công quân sự tại Trường.