Triều đại nhà Lý (1009 - 1225) là một giai đoạn chứng kiến nhiều thành tựu văn minh nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Một trong những di sản quan trọng còn lại đến ngày nay tọa lạc tại chùa Long Đọi Sơn ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, đó là tấm bia Sùng Thiện Diên Linh.
Trên tấm bia này lưu giữ bút tích của 2 vị vua sáng chói bậc nhất trong lịch sử nước ta.
Nghệ thuật chạm khắc độc đáo
Bia Sùng Thiện Diên Linh – hay tên đầy đủ là "Bia bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh của vua thứ tư nhà Lý, nước Đại Việt", được dựng vào năm 1121 tại chùa Long Đọi Sơn, nay thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Theo thông tin lưu trữ tại Cục Di sản, bia được làm bằng tảng đá xanh nguyên khối nặng khoảng một tấn, cao 1,75m. Trán trước mặt bia trang trí đồ án rồng chầu đối xứng hai bên. Rồng có đầu ngước lên cao, thân cuộn khúc uốn lượn, mình rồng tròn trơn uốn lượn mềm mại hình sin, thon dần về đuôi. Xung quanh có những dải mây hình lửa đan xen quanh chân rồng.
Trên lưng rồng lớn là một con rồng chầu nhỏ uốn lượn nằm dàn trên bốn khúc lượn của rồng lớn, tạo nên một đôi rồng "mẹ con".
Trán bia ở mặt sau được trang trí hơi khác mặt trước với hình lá đề ở trung tâm. Đầu rồng ở diềm bia hai bên đều ở tư thế vươn lên phía trên hướng về trán bia. Hai bên thành bia được trang trí ô quả trám vuông nối tiếp nhau. Giữa quả trám chạm một đôi rồng chầu.
Mặt trước của bia Sùng Thiện Diên Linh với bút tích của vua Lý Nhân Tông được khắc trên trán bia (hình chụp tại triển lãm Phỏng dựng kiến trúc Chùa Một Cột thời Lý)
Cả tấm bia được đặt trên một bệ đá hình bầu dục cao 50cm, dài 2,4m, rộng 1,8m. Ở giữa tạo hộc đặt bia.
Hai mặt trên bệ bia mỗi bên chạm nổi khối hai con rồng. Thân rồng uốn thành năm khúc, đầu chầu vào nhau hướng lên phía trên bia. Hai thân rồng đối xứng cuộn đều. Đuôi rồng giao nhau, uốn khít hình "vặn thừng" thon nhỏ dần.
Cận cảnh trán bia với dòng chữ Phi Bạch của vua Lý Nhân Tông (hình: báo Nhân Dân)
Ở bên phải bia là bài thơ cùng lời dẫn của vua Lê Thánh Tông sáng tác vào năm thứ 8 niên hiệu Quang Thuận (1467) khi về qua thăm chùa, do bề tôi là Lê Văn tướng quân vâng mệnh viết chữ.
Bài thơ có tên "Đăng Long Đội sơn đề Sùng Thiện Diên Linh bảo tháp bi hậu" (Lên núi Long Đọi viết sau bia Sùng Thiện Diên Linh), được mở đầu với lời dẫn: Ta đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả núi này, bèn lên chơi chùa. Cười vua tôi triều Lý tôn sùng điều hư không, thương đất nước trải nhiều phen binh lửa. Nên lưu lại một bài thơ vào mặt sau bia rằng:
Thiên nhận tằng loan cổ Hoá Thành
(Trên dãy núi cao ở Hoá Thành xưa)
Phan duyên thạch đặng khấu thiền quynh.
(Trèo lên đèo đá, gõ cửa nhà chùa.)
Lý hoàng quái đản bi không tại
(Việc hư vô của vua nhà Lý chỉ còn trên bia)
Minh tặc hung tàn tự dĩ canh.
(Giặc Minh hung tàn, chùa khác xưa.)
Lộ thiểu nhân tung đài giáp lục
(Đường vắng người đi, rêu phủ xanh)
Sơn đa xuân vũ thiếu ngân thanh.
( Núi nhiều mưa xuân, vết lửa chuyển màu xanh.)
Đăng cao nhãn giới vô cùng trước
(Lên cao tầm mắt nhìn càng rộng)
Vạn lý mang mang thảo thụ bình.
(Muôn dặm mênh mông cây cỏ bằng.)
Bài thơ của vua Lê Thánh Tông (hình chụp bản dập)
Nội dung giá trị và số phận ly kỳ
Mặt trước tấm bia là bài văn với tổng cộng 4257 chữ Hán, nội dung có 3 ý chính:
- Phần một: Ca ngợi Phật Thích Ca và giáo lý sâu sắc huyền diệu của đạo Phật;
- Phần hai: Ca ngợi vua Lý Nhân Tông: Từ điềm thiêng lúc đầu thai khi ra đời, vẻ trang nghiêm, tầm hiểu biết tài nghệ sáng chế rùa vàng, tài chế tạo, công vun đắp thắng duyên, việc dựng chùa Phật, uy lực thần vũ, sự lo toan nhiệm màu cho đến những biểu hiện về một thời đại thịnh trị của nhà vua. Văn bia cũng ca ngợi Thái Úy Lý Thường Kiệt – người chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tống lần 2. Đặc biệt cung cấp những thông tin hiếm quý chỉ có duy nhất ở bia này đó là Hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày bảy đêm ở kinh thành Thăng Long thời Lý, múa rối nước, nghi lễ Mật Tông, sửa chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và các trò chơi giải trí dân gian và cung đình.
- Phần ba: Kể lại quá trình xây dựng tháp Sùng Thiện Diên Linh cùng ngôi chùa và phước báu to lớn của công đức này.
Cuối bài văn là dòng lạc khoản đề "dựng bia ngày mồng 6 tháng 7 năm Tân Sửu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai" (tức ngày 20/8/1121).
Có thể nhận xét rằng trên mặt trước của tấm bia, những nội dung của văn bia có giá trị lịch sử không kém những nét bút của vua Lý Nhân Tông. Đặc biệt phần thứ hai của bài văn đã miêu tả tương đối hoàn chỉnh đời sống cung đình nhà Lý, hanh trạng những danh nhân trong lịch sử và diện mạo ban đầu của những công trình kiến trúc tiêu biểu như chùa Một Cột, Hoàng thành Thăng Long…
Nếu như bài văn mặt trước là một trang sử nhà Lý, thì mặt sau tấm bia giống như một bộ sử ghi lại nhiều biến cố. Mặt bia khắc thành năm đoạn với năm niên đại khác nhau, cỡ chữ to nhỏ khác nhau. Có những đoạn chữ bị mờ và mất.
Tương ứng với mỗi thời đại là những nội dung như sau:
- Thời Lý: Phù Thánh Linh Nhân Thái hậu (Ỷ Lan) - mẹ vua Lý Nhân Tông, tiến cúng 72 mẫu ruộng. Văn bia khắc vào ngày mồng 6 tháng 7 năm Tân Sửu, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121).
- Thời Lê Sơ: bài thơ của vua Lê Thánh Tông.
- Thời Mạc: Ở bên trái bia, khắc vào tiết Đoan Dương ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Mão niên hiệu Hưng Trị thứ tư đời vua thứ năm nhà Mạc (1591) ghi về việc dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà, tu bổ tượng hỏng, làm lại cổng, xây tường sau hơn năm trăm năm bị hủy hoại hư hỏng.
- Thời Lê Trung Hưng: Bên phải giáp diềm bia, khắc vào ngày mồng 7 đầu tháng 10 năm thứ 19 niên hiệu Chính Hòa (Lê Hy Tông 1698) ghi nội dung văn ước các thửa đất ruộng Tam Bảo của xã Đội Sơn.
Sở dĩ mặt sau bia Sùng Thiện Diên Linh xuất hiện văn bản của bốn thời đại khác nhau là bởi vào đầu thế kỷ XV, Đại Việt bị quân Minh xâm lược. Tại núi Long Đọi Sơn, quân Minh phá hủy Tháp, bia bị lật đổ. Bài thơ của vua Lê Thánh Tông đề lên sau đó đã ghi lại biến cố này cũng như cảnh chùa hoang tàn sau đó.
Đến năm Hưng Trị thứ 4 nhà Mạc (1591), với sự chung sức của Cai huyện Duy Tân Đô chỉ huy Vân Bảng Bá, Đồng Ty quan Phú Triều Bá, Phù Thắng Bá, Cai quan Lam Kiều Bá cùng người dân các xã Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín đã thì tấm bia mới được dựng lại theo hiện trạng ban đầu.
Đến năm 1997 được nguồn hỗ trợ của Nhà nước, nhà chùa và nhân dân địa phương làm nhà che bia để bảo quản bia, một di sản quý giá mới được bảo tồn để làm nơi lưu giữ những dấu ấn của lịch sử.