Trong giai đoạn đầu tiên của Chiến tranh Việt Nam, các vũ khí, thiết bị quân sự và vật tư khác được chuyển tới Việt Nam chủ yếu là bằng đường sắt thông qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, thời đó quan hệ Xô-Trung không mấy thân thiện. Những toa tàu với hàng hóa từ Liên Xô thường xuyên bị gỡ niêm phong, các thiết bị quân sự bí mật phải chịu sự kiểm tra bất hợp pháp của chuyên gia Trung Quốc, nhiều lô hàng cơ bản bị đánh cắp.
Những năm 1953-1991, từ Liên Xô đã đưa sang Việt Nam 2.000 xe tăng, 1.700 xe bọc thép, 7.000 đại bác và súng cối, hơn 5.000 pháo cao xạ chống máy bay, 158 tổ hợp tên lửa phòng không, hơn 700 chiến đấu cơ, 120 máy bay trực thăng, trên 100 tàu chiến.
Và phần lớn sự trợ giúp này được cung cấp trong những năm không quân Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại chống miền Bắc Việt Nam. Khi đó Liên Xô đảm bảo hơn ¾ tổng khối lượng viện trợ mà Việt Nam nhận được từ nguồn nước ngoài, cần thiết trước hết để đẩy lui cuộc xâm lược cũng như duy trì hoạt động của cơ cấu kinh tế-xã hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tính ra tiền thì lượng cung cấp này bằng khoảng hai triệu USD mỗi ngày. Toàn bộ nguồn cung cấp này đều là viện trợ không hoàn lại.
Thiết bị quân sự từ Liên Xô sang Việt Nam là tiên tiến nhất của thời điểm đó. Ví dụ, máy bay chiến đấu phản lực MiG mà các phi công Việt Nam đã dùng để bắn hạ cả F-105 lẫn "pháo đài bay" B-52 của Mỹ. Tổ hợp tên lửa phòng không Dvina có khả năng bắn trúng mục tiêu trên không, ngay cả khi ở độ cao 25 km. "Đây là những quả đạn tử thần được phóng lên từ mặt đất để diệt máy bay", — như "Tạp chí quân sự-kỹ thuật" Mỹ thời ấy đã nêu nhận xét.
Để đảm bảo bí mật quân sự, ban lãnh đạo ở Moskow đã quyết định đưa hàng tới Việt Nam bằng đường biển, trực tiếp từ các hải cảng của Liên Xô.
|
Tàu Liên Xô chở viện trợ quân sự cho Việt Nam từ Biển Đen. Ảnh: Sputnik |
Bộ trưởng Bộ Hải quân Liên Xô đã dẫn ra con số như sau: nếu tính riêng một năm 1970 và đem tất cả các hàng hóa chuyển bằng đường biển từ Liên Xô sang Việt Nam trong năm đó chất lên các toa tàu đường sắt, thì đoàn xe lửa chở hàng như vậy sẽ có chiều dài… 800 km.
Các thủy thủ Liên Xô chuyển hàng bằng hai tuyến đường. Tuyến ngắn — từ cảng Viễn Đông, vượt qua khoảng 3.000 hải lý và mất 10 ngày đêm. Tuyến dài từ các cảng vùng Biển Đen. Do việc đóng cửa tàu kênh đào Suez hồi ấy, tàu bè từ Biển Đen buộc phải đi vòng qua châu Phi, tức là kéo dài hành trình thêm 14.000 hải lý, tức là xa thêm đến 26.000 km. Lộ trình này mất 45 ngày đêm.
Trong những năm không quân Mỹ dội bom xuống miền Bắc Việt Nam, trung bình mỗi tháng có 40 con tàu Liên Xô đi theo những lộ trình này tới Việt Nam và neo lại bốc dỡ hàng tại các cảng Hải Phòng, Hòn Gai và Cẩm Phả. Các tuyến đường ở đoạn cuối thực sự là hành trình chiến đấu. Bởi tàu phải qua các vùng biển mà Mỹ coi là khu vực hoạt động chiến sự. Và nếu trong thời chiến tranh đó, tổn thất chuyên gia quân sự Liên Xô trực tiếp tại vị trí chiến đấu ở Việt Nam là 4 người, thì thương vong của các thủy thủ dân sự Liên Xô đảm trách mang hàng viện trợ sang Việt Nam là 7 người.