Là một trong số rất ít người học lớp Hán học đầu
tiên của Việt Nam tại Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt
Nam, PGS-TS Đỗ Thị Hảo được đồng nghiệp trìu mến gọi là "động vật quý
hiếm" của ngành Hán học. Năm 60 tuổi mới được nghỉ hưu (2006), nhưng đến
nay, công việc của bà vẫn "ngập đầu, ngập cổ": Dạy học, hướng dẫn luận
văn cao học, viết sách, làm công tác quản lý ở Hội Liên hiệp Văn học
Nghệ thuật Hà Nội và Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội...
Sự thiếu hụt đội ngũ những người làm Hán Nôm luôn là điều trăn trở
với bà, bởi: "Nếu không nghiên cứu, khai thác kho tàng Hán Nôm thì không
những mình không hiểu biết gì về gốc tích của mình mà còn mất cả một di
sản to lớn do tổ tiên tích lũy hàng nghìn năm để lại".
Mới đây, cuốn Sự tích các bà Thành hoàng làng của TS Đỗ Thị
Hảo đã giành giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2012 và được dự án
Xuất bản di sản văn hóa dân gian của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam xuất
bản với sự tài trợ của Chính phủ. Cuốn sách được đem tặng tất cả các
thư viện, các tỉnh thành ở Việt Nam.
Có lẽ cả cuộc đời gắn bó với việc nghiên cứu Hán Nôm nên tính cách,
bản sắc văn hóa của người xưa cũng phần nào thấm vào con người bà: Nhẹ
nhàng, sâu lắng, khiêm nhường.
Thưa bà, thực trạng đội ngũ những người làm Hán Nôm ở ta hiện nay như thế nào?
Hán Nôm là "tử ngữ" vì hiện nay người ta chỉ nghiên cứu và dịch những
tài liệu thư tịch Hán Nôm chứ không ai nói bằng ngôn ngữ ấy cả.
Trong lĩnh vực Hán Nôm có rất nhiều chuyên ngành khác nhau: Triết
học, lịch sử, văn học, các phong tục tập quán, kinh nghiệm sản xuất...
Tất cả đời sống tinh thần và xã hội Việt Nam hàng nghìn năm được phản
ánh trong kho tàng này. Thường thì mỗi người chỉ chuyên về một lĩnh vực.
Có người chuyên về văn bia (văn miếu, đình chùa), người chuyên về văn
học (các tác gia: Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Trãi...). Riêng tôi thì chuyên
nghiên cứu về các nữ tác gia và các thần tích, sắc phong trong đình,
chùa, miếu mạo...
Nói về dịch thuật thì trình độ của mỗi người cũng khác nhau, có những
người chỉ dịch theo kiểu "vỡ vàng" ra thôi, nhưng có những người dịch
rất hay, rất uyên bác. Ví dụ như các cụ: Cao Xuân Huy (triết học), Nam
Trân (thơ, kinh thi...), Đào Duy Anh (lịch sử...)... là lớp thầy của
chúng tôi. Lớp kế tục như bọn tôi vẫn phải vừa làm vừa học.
Bản thân tôi có hơn 40 năm làm nghề nhưng đến tận giờ vẫn phải tiếp
tục học. Các nghề khác, chỉ cần học những điều cơ bản, trên cơ sở ấy thì
có thể làm việc được. Đằng này, học cái gì thì biết cái đấy vì nó rất
mênh mang, rộng lớn. Đó là lý do khiến lớp trẻ bây giờ ít mặn mà với Hán
Nôm.
Nghiên cứu Hán Nôm phải rất kiên trì, và phải thực sự đam mê mới hy
vọng làm được công việc, chứ không phải ai cũng có thể thành đạt. Tuyển
sinh khoa Hán Nôm năm nào cũng rất khó khăn. Như năm ngoái, không chỉ có
Hán Nôm mà các ngành khoa học xã hội đều khó tuyển. Vậy vấn đề đặt ra
là: Lớp "các cụ" đã "đi" hết hoặc cũng đã yếu rồi, làm thế nào để có lớp
kế cận. Đây là mối lo chung của cả ngành xã hội nhân văn chứ không chỉ
Hán Nôm.
Nguy cơ thì rõ vậy rồi, nhưng hậu quả sẽ như thế nào, nếu
như chúng ta không quan tâm đến các ngành khoa học xã hội nói chung và
Hán Nôm nói riêng, theo bà?
Khoa học xã hội phản ánh hầu hết đời sống vật chất, tinh thần và quan
trọng là đời sống văn hóa của cả dân tộc. Nó là một mạch chảy vô cùng
mạnh mẽ, phong phú trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu
khai thác được kho tàng Hán Nôm, chúng ta sẽ thấy hết được bản chất của
con người Việt Nam là như thế nào và tại sao lại có được nhiều chiến
công hiển hách như thế. Hiểu được phong tục tập quán, nếp sống đặc
trưng, tạo nên bản sắc riêng, độc đáo của con người Việt Nam để từ đó
tiếp nối và phát huy. Nếu không khẩn trương khai thác thì kho tàng này
sẽ ngày càng bị mai một.
Đã nhiều lần, chúng tôi - những người khóa I Hán Nôm khuyến nghị: Nên
đưa Hán Nôm vào trường học (trung học cơ sở trở lên) như một ngoại ngữ.
Bởi vì thời thuộc Pháp, ngay cả chính quyền bảo hộ, họ bắt học tiếng
Pháp bên cạnh Hán Nôm, cho nên những thế hệ của các bậc đi trước đều rất
giỏi tiếng Pháp và Hán Nôm.
Đào tạo của chúng ta hiện rất coi trọng các ngoại ngữ nhưng lại trừ
Hán Nôm. Đây là sự hụt hẫng đáng tiếc những kiến thức nền tảng về bản
sắc văn hóa. Khi các cháu được học Hán Nôm, thì ít ra cũng biết những
kiến thức cơ bản về lịch sử đất nước, về dân tộc, về con người Việt Nam.
Vì thế, nếu không cho các cháu tiếp cận với Hán Nôm từ nhỏ, mà chỉ học
toàn tiếng nước ngoài, thì coi như có nguy cơ lớn về sự mất gốc.
Bà có nghĩ là đề nghị đó chưa được đáp ứng là do chính sách phát triển của Nhà nước ta còn lệch?
Đúng là chưa quan tâm toàn diện. Theo tôi, phải quan tâm đến cái cốt
lõi, cái nền tảng của văn hóa. Trên cơ sở nền tảng ấy mới phát triển
được, chứ còn cái gốc mà không hiểu, không chăm chút mà chỉ quan tâm đến
những thứ "râu ria" hoặc từ lưng chừng trở lên thì mãi mãi nó chỉ như
hiện nay mà thôi.
Thực ra phải có truyền thống thì mới có hiện đại. Không thể để hiện
đại bị đứt đoạn với truyền thống. Đặc biệt dân tộc mình, truyền thống có
bề dày vô cùng phong phú.
Trong lĩnh vực Hán Nôm, cả đời chúng tôi nghiên cứu tìm hiểu, càng
nghiên cứu thì càng thấy hay và có lẽ cả đời chúng tôi và nhiều thế hệ
tiếp sau nữa cũng không "giải mã" hết được.
Bên cạnh Hán Nôm tôi làm về văn hóa dân gian, nhưng nếu không có kiến
thức của Hán Nôm thì rất hạn chế trong việc nghiên cứu văn hóa dân gian
bởi chúng gắn với đời sống từ hàng ngàn năm đến nay.
Được biết, các cơ quan quản lý đang tiến hành tổng kết 15
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương V về phát triển văn hóa. Với tư
cách là nhà nghiên cứu và nhà quản lý, bà thấy nghị quyết này đã thực sự
đi vào đời sống chưa?
Cốt lõi của Nghị quyết Trung ương V là phải phát triển nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Yếu tố đậm đà bản sắc dân tộc là rất
quan trọng. Nghị quyết là thế và cũng được phổ biến rộng rãi ở các cấp,
các ngành... đặc biệt là các cơ quan văn hóa nhưng từ việc lĩnh hội
tinh thần nghị quyết đến việc thực hiện vẫn còn khoảng cách khá xa.
Nhiều cơ quan, đơn vị cũng rất quan tâm đến vấn đề này, nhưng dù sao
vấn đề phát triển theo hướng đó dường như vẫn là "câu hỏi" thôi, vì vẫn
còn nhiều băn khoăn, trăn trở lắm. Người ta chưa thấy một hướng đi cụ
thể để mà yên tâm cứ thế mà tiến bước.
Đó có phải là hệ quả của việc không đứng từ gốc (văn hóa
truyền thống) để mà tìm đường đi cho mình, mà chỉ là đứng đâu đó ở lưng
chừng hoặc ở trên ngọn?
Chúng ta không đứng từ cái nền mà nhìn nhận vấn đề, hoạch định chính
sách. Nói gì thì nói phải có một nền móng vững chắc thì mới phát triển
và phát triển bền vững. Do vậy, thật khó trả lời cho câu hỏi thế nào là
bản sắc dân tộc, chứ nói gì đến việc phát triển và phát huy nó.
Bức tranh lễ hội ở ta là một minh chứng cho sự biết chưa thấu đáo của cả các đơn vị tổ chức lẫn những người tham gia lễ hội.
Lễ hội là truyền thống văn hóa cha ông ta để lại đã hàng nghìn năm
nay rồi chứ có phải mới có vài chục năm trở lại đây đâu. Bản chất của lễ
hội là phản ánh đời sống sinh hoạt, đời sống vật chất, tinh thần của
dân ở từng làng xóm, địa phương, vùng miền. Ngoài ra, nó còn phản ánh
nhiều ý nghĩa sâu xa nữa. Bao giờ lễ hội cũng gắn với thần hoàng làng,
phần lễ được tổ chức trang nghiêm để tôn vinh những vị thần hoàng làng,
những người có công với làng, nước.
Nhưng lễ hội trong những năm gần đây trở thành rất hình thức, tính
chất linh thiêng và truyền thống không còn nhiều. Thay vào đó là các
hình thức kinh doanh, dịch vụ. Ngày xưa, phần hội thu hút tất cả dân
làng và các vùng lân cận, là những trò chơi dân gian: Kéo co, bắt trạch
trong chum, đánh đu, đập niêu, thổi cơm thi, đánh pháo đất. Cứ đến ngày
lễ hội thì con dân của làng sống ở bất cứ đâu cũng đều náo nức về làng.
Hiện nay lễ hội chủ yếu là làm dịch vụ cho khách thập phương - những
người đến lễ ở di tích mà chẳng hiểu gì về di tích ấy cả. Phần hội phần
nhiều là các trò chơi đỏ đen, mê tín dị đoan... Mất hết ý nghĩa văn hóa.
Cụ thể hơn, lễ hội ở đền Trần, tại sao các cơ quan quản lý không giải
thích rõ cho dân ý nghĩa thực sự của việc phát ấn là không liên quan gì
đến xin thần thánh bổng lộc, chức tước, buôn may bán đắt... mà lại phải
huy động cả một hệ thống chính trị từ lãnh đạo tỉnh đến hàng ngàn người
từ lực lượng công an, bảo vệ "chạy" theo lòng tin thiếu cơ sở khoa học
của dân?
Chẳng ai tuyên truyền, giáo dục về phép tắc khi đến đình chùa mà chỉ
chú ý đến những chuyện lặt vặt: Không nên giắt tiền vào tay Phật, chỉ
được đặt ba hòm công đức ở mỗi di tích... Vì thế mà không thể dẹp được
các tiêu cực ở lễ hội.
Vậy, bà có lời khuyên nào cho những người đến với lễ hội?
Đền, đình là thờ thánh, chùa thờ Phật. Ngày xưa chùa là của các cụ
bà, đình là của các cụ ông. Đình không những là nơi thờ thành hoàng mà
còn là nơi làm việc, bàn bạc các công việc của làng. Khi đến đình, chùa,
miếu mạo bao giờ cũng phải có cái tâm, tìm sự thoải mái về tâm linh,
nhớ đến các vị có công với nước, với dân, trong đó có bản thân mình, gia
đình mình, dòng tộc mình. Đấy là ý nghĩa sâu xa, tôi chắc là mọi người
đều nghĩ thế.
Nhưng có những người khi đến đó thì lại có ý nghĩ công đức thật
nhiều, mua lễ vật thật nhiều để được "bề trên" ưu ái hơn là không nên.
Nếu ai cũng nghĩ có nhiều tiền, công đức nhiều thì sẽ được thần phật phù
hộ nhiều thì những người nghèo chết hết cả hay sao?
Đừng có nghĩ đến chuyện cứ công đức thật nhiều, đi lễ thật nhiều nơi,
nhưng lại làm những việc không đúng đắn như đối xử với cha mẹ, chồng,
con, họ tộc không ra làm sao thì chẳng thần phật nào chứng giám và phù
hộ cho đâu.
Có lần PGS Trần Lâm Biền đã bức xúc, đại khái, ngày nay người ta có
tư tưởng hối lộ cả thần phật. Ý đó của ông cũng đúng, nguyên do là người
ta không hiểu. Đừng đến đình chùa bằng sở thích nhất thời hay thậm chí
là đua đòi mà không hiểu gì về ý nghĩa ở nơi đó, thậm chí thuê cả người
khấn hộ... Biến không gian linh thiêng thành nơi tạp nham như chợ. Phải
hiểu rằng chỉ cần một nén tâm hương cũng sẽ thấu đến Trời.
Quay lại với câu chuyện của Hán Nôm. Bà nghĩ sao khi có ý
kiến cho rằng, vì chúng ta có quá ít người làm Hán Nôm cũng như tư liệu
không đầy đủ cho nên có những giai đoạn lịch sử, chúng ta phải dựa vào
lịch sử của Trung Quốc để nghiên cứu?
Không! Nói như thế hoàn toàn sai.
Không phải thiếu lực lượng làm Hán Nôm mà lịch sử bị sai lệch đi. Các
văn bản lịch sử để lại có rất nhiều. Chỉ có điều là chưa khai thác hết
mà thôi.
Những tài liệu lịch sử của các cụ để lại đều thể hiện tinh thần kiên
định và xuyên suốt là tính tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam rất rõ
ràng. Kể cả phần dã sử (dân gian truyền tụng) cũng mang đậm tính dân
tộc, không hề bị ảnh hưởng của Trung Quốc. Bởi thế cho nên 1.000 năm Bắc
thuộc mà mình không bị đồng hóa. Không ai dựa vào lịch sử Trung Quốc
làm căn cứ để nói về lịch sử Việt Nam. Không bao giờ có chuyện đó!
Nói là chưa khai thác hết nhưng không có nghĩa là bỏ đứt đoạn một
giai đoạn nào đó mà phải nghiên cứu thành một hệ thống. Chỉ có chưa hết
thôi.
Ví dụ có hàng trăm bộ sử chẳng hạn, nhưng hiện nay người ta mới khai
thác các bộ sử chính, bộ sử lớn, còn các bộ khác thì đang làm dần dần.
Bởi vì trong quá trình nghiên cứu còn phải tham chiếu, so sánh giữa các
bộ sử với nhau. BộĐại Việt sử ký toàn thư được dịch tới ba lần
với rất nhiều văn bản mới được phát hiện, có hiệu đính, bổ sung. Việc
khai thác lịch sử Việt Nam là thành tựu rất lớn của các nhà sử học của
Việt Nam, trong đó có đóng góp không nhỏ của ngành Hán Nôm.
Chúng ta cũng không thiếu tài liệu về Hán Nôm. Toàn bộ đời sống sinh
hoạt, văn hóa của 1.000 năm (thời gian chữ Hán Nôm được sử dụng - PV)
được quy tụ trong kho tàng sách Hán Nôm. Năm 1918, Trường Viễn đông Bác
cổ Pháp có công sưu tầm và lưu giữ tất cả các sách Hán Nôm, kể cả văn
bia. Sau khi giải phóng thủ đô, kho đó được trao cho Viện Viễn đông Bác
cổ, rồi Viện Hán Nôm. Đó là một kho tri thức vô cùng đồ sộ.
Bên cạnh đó, có những văn bản, tài liệu được Pháp mang về và chúng ta
đã cử cán bộ sang xin chụp lại và dịch. Hiện bộ thư mục sách Hán Nôm
trên 4.000 trang đã có danh sách đầy đủ những đầu sách hiện lưu giữ tại
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đấy là chưa kể những đầu sách nằm rải
rác ở miền núi và thư viện, bảo tàng các tỉnh. Ở những nơi đó, công tác
sưu tầm cũng được làm rất tốt.
Hiện tại, bảo tàng các tỉnh đều có bộ phận sách Hán Nôm, đặc biệt bảo
tàng Thái Nguyên còn sưu tầm được sách Hán Nôm của các dân tộc: Tày,
Nùng, Dao, Sán Chay... Đó là những tài liệu vô cùng quý giá, nó phản ánh
phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật của dân tộc ít
người. Hiện nay Viện Hán Nôm cũng đang khai thác mảng Hán Nôm các dân
tộc. Tìm về bản sắc là tìm về nguồn, về gốc ở chỗ đó.
Bà có thể cho độc giả biết đôi nét về cuốn Sự tích các bà Thành hoàng làng - giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô năm 2012?
Thường nói đến thành hoàng làng là người ta nghĩ đến các ông. Còn các
bà, thì ít người nhắc đến. Ý thức hệ phong kiến cũng không coi trọng
người phụ nữ, thế nên mới có chuyện phụ nữ không được vào đình, chỉ được
ở vòng ngoài thôi. Nhưng thực tế, có rất nhiều bà đã có nhiều công tích
với dân với nước và triều đình phong kiến đã phải thừa nhận và phong
Thành hoàng, ví dụ như Hai Bà Trưng, các tướng lĩnh của bà; các bà là tổ
nghề thủ công: đan lát, làm sọt, cày cấy, làm lược, nuôi tằm dệt vải...
thậm chí có cả những người sống rất từ bi, chuyên nuôi những đứa trẻ bị
bỏ rơi cũng được phong Thành hoàng. Tất cả những điều đó chỉ có thể tìm
thấy trong sách Hán Nôm.
Cách đây khoảng 25 năm, tôi có viết cuốn Các nữ thần Việt Nam. Sau đó, Bảo tàng Phụ nữ nhờ làm cuốn Những gương mặt phụ nữ trong thư tịch Hán Nôm Việt Nam. Trên cơ sở ấy, tôi nghĩ, đằng nào cũng phải nghiên cứu về mảng phụ nữ nên tôi làm chuyên đề Các bà Thành hoàng làng Việt Nam. Cuốn sách làm hơn năm năm, dày khoảng 400 trang, tập hợp hơn 180 vị thành hoàng là nữ.
Trong quá trình làm, tôi lại nghĩ, một số địa phương thờ các bà thành
hoàng, nhưng lại không biết sự tích cụ thể như thế nào hoặc không biết
nguồn gốc tài liệu nằm ở đâu. Do vậy, công đôi ba việc, tôi làm sự tích
về các bà, nói rõ thờ ở đâu (tên cũ, tên mới), có chú giải nằm ở trong
sách Hán Nôm nào, ký hiệu sách ấy ra sao, ở thư viện nào, trang bao
nhiêu... Làng nào mà mất thần tích, sắc phong, muốn tìm hiểu, cứ theo đó
mà đi tìm, xin chụp lại và mang về thờ. Tôi cũng rất vui vì không nghĩ
cuốn sách được nhiều người quan tâm đến thế.
Thưa, là một phụ nữ, lý do gì khiến bà chọn con đường khó nhọc là Hán Nôm để theo đuổi?
Hồi còn là học sinh, tôi chẳng biết Hán Nôm là gì, nhưng thích văn
học cổ mà văn học cổ chủ yếu là trong kho tàng Hán Nôm. Thời đó, những
người thích văn học thì thường thi vào Tổng hợp Văn. Nhưng năm đó, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng chỉ thị mở lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở Việt Nam
vì ông cho rằng: Kho tàng Hán Nôm của mình rất lớn, nhưng không đào tạo
Hán Nôm thì không có người nghiên cứu.
Trong khi đó, trong Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm mở một khóa Hán
Nôm rất lớn ở Huế để khai thác khối di sản này. Họ in rất nhiều sách
dịch từ Hán Nôm... Tôi tham gia là vì thế. Lớp đó có 18 người, phần lớn
là các giảng viên ở các trường đại học: thầy Bùi Duy Tân ở ĐH Tổng hợp,
thầy Đặng Đức Siêu (ĐH Sư phạm), cô Đặng Thanh Lê (ĐH Sư phạm), các cán
bộ nghiên cứu có tên tuổi như: GS Nguyễn Văn Hoàn, GS Nguyễn Huệ Chi
(Viện Văn), PGS Trần Nghĩa... Rất nhiều người nổi tiếng học lớp ấy với
mục đích sẽ trở thành những "hạt nhân" để dạy các lớp Hán Nôm sau này.
Trong lớp chỉ có bốn người vừa tốt nghiệp phổ thông tham gia, tôi là một
trong số đó. Tốt nghiệp, tôi về Viện Văn, đến năm 1971 có Viện Hán Nôm
thì về làm việc ở viện đó đến khi nghỉ hưu.
Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện!
TIN LIÊN QUAN
BÀI ĐỌC NHIỀU