Ung thư phổi là bệnh lý ác tính, xuất phát từ sự tăng sinh mất kiểm soát của các tế bào trong nhu mô phổi. Bệnh phổ biến trên toàn thế giới và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh lý ung thư ở cả hai giới. Ước tính, mỗi năm có khoảng 1,8 triệu ca tử vong trên toàn thế giới do ung thư phổi.
Hút thuốc lá được coi là yếu tố nguy cơ chính với ung thư phổi. Tuy nhiên, theo thống kê trên toàn thế giới, khoảng 10-15% người hút thuốc lá bị ung thư phổi. 10-25% những người bị ung thư phổi không hề hút thuốc.
Hút thuốc lá thụ động được đặt ra trong trường hợp này, vì nó đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ mắc ung thư phổi lên 20%. Vậy nhưng hút thuốc lá thụ động cũng chỉ chiếm 16-24% các trường hợp ung thư phổi ở những người không hút thuốc.
Ung thư phổi ở những người không hút thuốc thường được chẩn đoán ở giới nữ, trẻ tuổi. Họ có xu hướng đáp ứng tốt hơn với điều trị có sự xuất hiện của các đột biến gene.
Đặc điểm này tạo nên nỗi lo của nhiều gia đình bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi rằng liệu bệnh có di truyền hay không. Các nghiên cứu đã được tiến hành để làm rõ vai trò của các gene và khả năng di truyền của nó.
Ung thư và di truyền
Tế bào ung thư là những tế bào đột biến, phát triển không chịu sự kiểm soát của cơ thể. Phần lớn các đột biến này xuất hiện sau khi sinh, trong quá trình tương tác với môi trường sống và chúng không di truyền được. Một số nhỏ đột biến khác có từ ngay khi mới sinh (do đột biến tế bào mầm - tế bào phân chia và hình thành nên toàn bộ cơ thể) và có thể di truyền.
|
Tế bào ung thư là những tế bào đột biến, phát triển không chịu sự kiểm soát của cơ thể. Ảnh: Stemaid.
|
Cơ thể chúng ta nhận 2 bản sao gene khác nhau từ cha và mẹ. Do đó, khi đã mang trong mình một gene đột biến (ví dụ gene ức chế khối u đột biến mất chức năng), bạn chỉ cần đột biến ở một gene còn lại sẽ tạo điều kiện hình thành ung thư.
Trong khi đó, một người mang cả 2 gene bình thường thì cần đột biến xảy ra ở cả 2 gene mới đủ khả năng sinh bệnh. Vì vậy, những người nhận di truyền gene đột biến sẽ có nguy cơ bị ung thư cao hơn.
Tương tự với ung thư phổi, nếu gia đình có cha, mẹ, anh, chị, em mắc bệnh, nguy cơ sẽ tăng lên 2-3 lần so với những người không có tiền sử gia đình như vậy. Tuy nhiên, chúng ta cần xem xét điều này trong bối cảnh rộng hơn.
Nhiều thành viên trong gia đình mắc ung thư đó có thể do cùng tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ như khói thuốc (hút chủ động hoặc bị động), môi trường sống chung ô nhiễm hóa học, phóng xạ... Đây cũng là những khó khăn khi xác định có phải ung thư phổi gia đình hay di truyền không.
Một số gene có liên quan ung thư phổi
Khoảng 8% các trường hợp ung thư phổi là di truyền. Việc xác định đột biến gene của tế bào dòng mầm liên quan ung thư phổi di truyền vẫn còn là một thách thức.
Hiện nay, một số gene có liên quan tới bệnh ung thư phổi được xác định gồm:
- Gene EGFR: Đột biến gene EGFR T790M ở tế bào dòng mầm làm tăng nguy cơ phát triển ung thư phổi, đặc biệt ở người không hút thuốc. Đột biến rất hiếm, tuy nhiên được ước tính làm tăng nguy cơ mắc ung thư phổi ở những người không hút thuốc lên 31%.
- Gene TP53: Đây là gene ức chế khối u. Đột biến gene TP53 ở các tế bào dòng mầm làm mất khả năng ức chế khối u, do đó tăng nguy cơ xuất hiện ung thư ở nhiều cơ quan, trong đó có ung thư phổi và thường khởi phát sớm.
Li-Fraumeni là hội chứng di truyền hiếm gặp liên quan đột biến này. Các khối u liên quan hội chứng này bao gồm ung thư vú, sarcoma mô mềm, sarcoma xương, u não và ung thư biểu mô vỏ thượng thận. Ung thư phổi xảy ra ở 2,3-6,8% bệnh nhân mắc hội chứng Li-Fraumeni, thường là nam giới, với độ tuổi trung bình khi được chẩn đoán là 48.
Trong một số báo cáo, đột biến EGFR đã được phát hiện ở những bệnh nhân mắc hội chứng Li-Fraumeni phát triển ung thư phổi.
|
Khoảng 8% các trường hợp ung thư phổi là di truyền. Ảnh: Actualno.
|
- Gen BRCA: Đột biến gen BRCA ở tế bào dòng mầm thường được nhắc tới trong ung thư vú và buồng trứng di truyền. Tuy nhiên, những người mang đột biến gene này cũng có nguy cơ mắc một số loại ung thư khác như phổi, thận, gan.
- Gen HER2: Đây là một gene gây ung thư trong họ EGFR. Nó biểu hiện quá mức ở bệnh nhân ung thư vú với tần suất 15-20%. Tuy nhiên, trong ung thư phổi, đột biến soma của HER2 là rất hiếm. Những đột biến như vậy được tìm thấy trong 1,6-2,5% các trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ. Chúng thường gặp ở nữ giới, người châu Á, không hút thuốc, ung thư biểu mô tuyến, có liên quan đáp ứng điều trị kém.
- Một số gene khác: HER2, YAP1, CHECK2… Các đột biến gene này ở tế bào dòng mầm cũng có liên quan tới việc hình thành ung thư phổi.
Trường hợp nào sẽ nghĩ nhiều đến ung thư di truyền?
Những đặc điểm như sau có thể gợi ý đến ung thư di truyền:
Nhiều thành viên cùng mắc một loại ung thư (nhất là những bệnh ung thư ít gặp).
Ung thư ở độ tuổi trẻ hơn bình thường (như ung thư ruột kết ở tuổi 20).
Một người mắc nhiều hơn một loại ung thư (ví dụ một phụ nữ cùng bị ung thư vú và ung thư buồng trứng).
Ung thư ở cả hai cặp cơ quan (như cả hai mắt, thận hoặc vú).
Ung thư ở nhiều thế hệ (như ở ông, cha và con trai).
Hiện nay, xét nghiệm di truyền đối với ung thư phổi còn rất hạn chế. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng gặp phải khó khăn này và chưa có cách tốt nhất để quản lý những người mang gene đột biến nhưng chưa phát sinh bệnh.
Chụp cắt lớp vi tính liều thấp có thể được kết hợp trong chăm sóc và quản lý những người bệnh này, nhưng tần suất nào để có hiệu quả tối ưu là điều không chắc chắn.
Ngoài ra, tư vấn di truyền cho gia đình của những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi vẫn là một thách thức. Chúng ta không có hướng dẫn xét nghiệm di truyền nào được thiết lập chỉ dựa trên tiền sử gia đình có người mắc ung thư phổi, trừ khi những trường hợp này đã đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn của một hội chứng di truyền đã biết.
Tuy nhiên, như đã đề cập, phần lớn các đột biến gene gây ung thư phát sinh trong quá trình sống của mỗi người và không di truyền cho thế hệ sau. Vì vậy, dù có người thân đã mắc ung thư phổi, nguy cơ di truyền cho bạn vẫn rất thấp. Bạn vẫn nên cung cấp thông tin này cho bác sĩ để có những tư vấn phù hợp nhất trong việc sàng lọc.