Tại cuộc họp Tiểu ban Điều trị và Hội đồng Chuyên môn của Bộ Y tế chiều 7/5, Hội đồng chuyên môn đã đề nghị xem xét ghép phổi cho bệnh nhân 91 là nam phi công người Anh 43 tuổi.
Trong quá trình điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TPHCM, bệnh nhân 91 đã được sử dụng thiết bị ECMO (thiết bị thay thế tim phổi) đã hơn 30 ngày, nếu lâu dài sẽ là môi trường cho vi khuẩn xâm nhập.
|
Hội đồng chuyên môn đã đề nghị xem xét ghép phổi cho bệnh nhân 91 là nam phi công người Anh 43 tuổi. Ảnh minh họa. |
Đánh giá về phương pháp ghép phổi, bác sĩ Nguyễn Văn Vĩnh Châu, Giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TPHCM, nơi bệnh nhân 91 đang điều trị, cho hay, việc ghép phổi vẫn còn tuỳ vào nhiều khả năng.
"Muốn ghép phổi phải chờ tình trạng phổi hết viêm nhiễm. Vì đang nhiễm trùng mà phẫu thuật sẽ gây nhiễm khuẩn máu toàn thân và nhiễm luôn mảnh ghép. Ngoài ra, còn phải có nguồn phổi hiến sẵn sàng mới thực hiện được", bác sĩ Châu lý giải.
Theo thông tin trên website của Bệnh viện Vinmec, ghép phổi là một phẫu thuật lấy bỏ phổi bệnh và thay thế bằng phổi lành của người hiến có thể từ người còn sống hoặc người chết. Tiến hành phẫu thuật ghép phổi có thể diễn ra ở một bên phổi hay cả hai bên. Có thể tiến hành ghép phổi trên người từ trẻ sơ sinh đến người lớn dưới 65 tuổi. Đối với những trường hợp trên 65 tuổi cần cân nhắc những nguy cơ có thể xảy ra nếu tiến hành ghép phổi.
Các phương pháp ghép phổi bao gồm:
- Ghép một phổi
- Ghép hai phổi
- Ghép hai bên tuần tự ở hai thời điểm khác nhau, còn gọi là ghép hai bên đơn lẻ
- Ghép tim phổi
Đa số những trường hợp ghép phổi đều lấy từ người đã chết. Một số ít trường hợp lấy từ người sống, khỏe mạnh không hút thuốc và phù hợp miễn dịch với người nhận có thể cho một thùy phổi.
Những trường hợp tiến hành ghép phổi
Chỉ định ghép phổi được đặt ra khi bệnh phổi tiến triển nặng và không thể điều trị bằng cách nào khác nữa hoặc cũng được cân nhắc đối với những trường hợp mà tình trạng suy hô hấp ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
|
Bác sĩ sẽ chỉ định ghép phổi khi bệnh tình tiến triển nặng |
Chỉ định ghép phổi trong trường hợp:
- Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
- Xơ phổi vô căn
- Xơ nang phổi: Đây là một bệnh di truyền gây ra các vấn đề cho các tuyến tạo ra mồ hôi và chất nhầy. Bệnh tiến triển xấu đi dần theo thời gian và có thể dẫn tới tử vong.
- Tăng áp phổi nguyên phát: Làm tăng huyết áp ở các động mạch của hai phổi
- Bệnh tim: Bệnh tim hay những bất thường của tim có thể ảnh hưởng đến phổi và cần phải ghép tim, phổi
Ngoài ra, các bệnh gây tổn thương nặng cho phổi bao gồm: bệnh mô bào, bệnh sarcoid, bệnh bạch mạch cơ trơn,... Rất hiếm những trường hợp ung thư phổi được điều trị bằng ghép phổi.
Quy trình ghép phổi
Trước khi ghép phổi, cần đánh giá bởi nhiều bác sĩ chuyên khoa như: nội phổi, tim mạch, phẫu thuật lồng ngực và gây mê hồi sức,... Kiểm soát kỹ những bệnh nền như đái tháo đường, tăng huyết áp,... nếu như người bệnh mắc phải. Ngoài ra, người bệnh còn được tư vấn và chuẩn bị tinh thần bởi bác sĩ tâm lý và tiến hành một số xét nghiệm cần thiết.
Những trường hợp không nên ghép phổi nếu như có kèm theo bệnh lý tim mạch hoặc gan thận nặng, nhiễm trùng chưa được không chế, nghiện rượu, ma túy và ung thư. Những trường hợp mà bệnh nhân không bỏ được thuốc lá cũng không ưu tiên ghép phổi.
Khi có phổi tương thích của người cho với người nhận, người nhận sẽ được nhập viện vào khoa để chuẩn bị phẫu thuật. Cuộc mổ sẽ diễn ra nhanh chóng nếu tất cả các khám nghiệm đều cho phép phẫu thuật. Đầu tiên sẽ phẫu thuật lấy phổi từ người hiến và vận chuyển đến phòng mổ của người nhận. Bệnh nhân sẽ được gây tê toàn thân. Trong một số trường hợp cần phải chạy máy tim phổi nhân tạo, lúc đó máu sẽ được bơm và oxy hóa bằng máy, nhằm thay thế tạm thời cho chức năng tim phổi.
Phẫu thuật ghép 1 phổi sẽ có đường mổ dài một bên ngực, nếu ghép hai phổi hoặc ghép tim, phổi sẽ có đường mổ ngang suốt chiều dài lồng ngực.
Sau khi ghép phổi xong, người bệnh cần được theo dõi để phòng ngừa những biến chứng. Một số cận lâm sàng được chỉ định theo dõi như: chụp X-quang, đo chức năng hô hấp, soi phế quản, và thử máu. Thời gian phục hồi tùy thuộc vào cơ địa và tình trạng bệnh lý kèm theo của mỗi người. Một số người có thể xuất viện sau phẫu thuật một tuần. Sau phẫu thuật, người bệnh sẽ được hướng dẫn tập vật lý trị liệu và phục hồi chức năng. Ngoài ra,bệnh nhân còn được tư vấn về các loại thuốc phải sử dụng sau khi ghép phổi và lịch tái khám định kỳ.
Biến chứng sau ghép phổi
Một số biến chứng sau ghép phổi có thể xảy ra như:
Tắc đường thở
Phù phổi nặng, tràn dịch trong phổi
Nhiễm trùng
Chảy máu
Tắc các mạch máu đi đến phổi mới một hoặc cả hai bên
Đặc biệt, thải ghép phổi là nguy cơ lớn nhất sau phẫu thuật ghép phổi. Đây là một phản ứng bình thường của cơ thể khi xuất hiện mô lạ hay vật lạ. Hệ miễn dịch sẽ nhận khi một mô tạng được ghép vào cơ thể con người và tấn công vào tạng ghép. Lúc này người bệnh cần dụng thuốc nhằm đánh lừa hệ miễn dịch không tấn công vào tạng ghép, để tạng tiếp tục sống trong cơ thể mới.
Tóm lại, ghép phổi là một phương pháp điều trị ngoại khoa, người bệnh được thay thế một phần hoặc toàn bộ phổi từ người hiến. Ghép phổi thành công giúp cho người bệnh khỏi tình trạng suy hô hấp và cải thiện được chất lượng sống và quay trở lại các sinh hoạt bình thường. Sau khi ghép phổi người bệnh cần đến cơ sở y tế để thăm khám định kỳ nhằm phát hiện sớm những bất thường và được can thiệp kịp thời.